Khởi nguồn từ Mường Giôn (Quỳnh Nhai, Sơn La) du canh du cư lang thang
khắp cánh rừng Tây Bắc, rồi đến bản Pá Pằng (Pha Mu, Than Uyên, Lai
Châu), tộc người kỳ lạ này chính thức định canh tại bản Sài Lương (Tà
Mít, Tân Uyên, Lai Châu) vào giữa năm 1969.
Ám ảnh “con ma đói” và những cuộc đại thiên di
Theo lão cao niên 103 tuổi, Lò Văn Tom kể lại, tộc người của ông ngày
xưa tập trung hết ở Mường Giôn (Quỳnh Nhai, Sơn La), con cháu sinh sôi
quá đông, thiếu đất sinh sống, họ phải đắp thang đất lên đánh trời để
chiếm đất, không may ông trời xô đổ thang, người chết la liệt. Từ hàng
trăm năm nay, con cháu chúng họ cứ lang thang khắp núi rừng để tìm chỗ
định cư mới.
|
Lão cao niên 103 tuổi, Lò Văn Tom mong mỏi, dân tộc mình sẽ tìm thấy lại cái tên bị biến mất sau những cuộc đại di cư. |
Người Thái, Mông nơi đây gọi tộc người này là “Xá vàng lá”, chỉ cuộc
sống gắn liền với lều, lán được dựng lên bằng lá. Và mỗi lần lá trên
lán, trên lều của họ chuyển từ màu xanh sang màu vàng là họ lại chuẩn bị
di cư sang một miền đất mới sinh sống.
“Tôi không nhớ rõ lắm, lúc đó có khoảng 20 gia đình từ Mường Giôn di cư
sang Pá Pằng (Pha Mu, Than Uyên), định cư chỉ được một thời gian, cái
nương, cái rẫy kém quá, bụng cả bản đị đói, năm 1969, chúng tôi di cư
sang Sài Lương (Tà Mít, Tân Uyên). Dọc con song Nậm Mu đâu cũng là xá
(lều, nhà) của tộc người chúng tôi”, Ông Lò Văn Tom, đôi mắt nhập nhèm,
cho biết.
Sinh ra từ đại ngàn, bám núi rừng để tồn tại, cuộc sống của tộc người
này gắn liền với những cuộc đại du canh, du cư để kiếm miếng ăn. Đốt
rừng, làm nương, trồng rẫy, khai thác cạn kiệt mảnh đất này họ lại tìm
đến mảnh đất khác màu mỡ hơn, nhưng “con ma đói” như một nỗi ám ảnh với
họ.
|
Trong mùa đói, món ăn chính của nhiều gia đình là măng rừng và sắn. |
“Chúng tôi làm nương, trồng rẫy ở mọi nơi chúng tôi đến và nhờ vào
cái nắng, cái mưa của ông trời để kiếm miếng ăn, nhưng làm lâu, đất cũng
bạc màu, lo đến đời con cháu không trồng trọt được, chúng tôi lại tha
con, tha cái đến vùng khác khai phá. Tôi cũng không nhớ rõ trước khi đến
Sài Lương (Tà Mít) chúng tôi đã đi qua những đâu, nhưng hình như tôi đã
trải qua 3 hay 5 mùa đói gì đó ”, ông Lò Văn Nếch, người bản Sài Lương
chia sẻ.
Vào những mùa đói, món ăn chính của những người trong tộc người này
chủ yếu là măng rừng, họ tích măng rừng, sắn để chống chọi với cái đói.
Ông trưởng bản Sài Lương Hoàng Văn Bun, cho biết: “Vào những mùa đói,
thanh niên cả bản phải lên rừng kiếm cái măng. Nguồn măng cạn, chúng tôi
phải vào tận rừng già để kiếm. Gùi được nhiều, ăn không hết thì cho vào
ngâm tích lại”.
|
Trưởng bản Sài Lương, ông Hoàng Văn Bun khẳng định, chúng tôi không phải người Khơ Mú và không biết Khơ Mú là gì. |
Sinh ra từ núi, bám rừng để sống, bản sắc văn hóa du canh, du cư ngấm
sâu vào máu tộc người này. Năm 1969 khi đến Sài Lương, chính quyền
huyện Than Uyên (Lai Châu) đã nhiều lần cử cán bộ xuống vận động họ định
canh định cư, rồi phát cuốc, xẻng, phân bón… nhưng họ vẫn cứ bỏ bản lên
rừng đốt nương, trồng rẫy, săn bắt thú. Và “con ma đói” vẫn cứ đeo bám
lấy họ.
“Tôi nhớ, hồi đó huyện có hỗ trợ họ cả các giống lúa, nhưng họ nhất
quyết không trồng, bởi họ sợ trồng không quen sẽ mất mùa, đói chết. Hơn
nữa do họ quen với việc ăn nếp nương, bám lấy nương rẫy quen rồi. Mãi
sau này, sau nhiều tháng bám bản, bám nương rẫy, thuyết phục họ mới dần
hiểu ra”, ông Tòng Văn Đỉnh, trưởng phòng dân tộc huyện Tân Uyên cho
biết.
Báu vật văn hóa cuối cùng
Như cánh chim giữa đài ngàn, tộc người kỳ lạ này di cư không đơn
thuần chỉ để để kiếm cái ăn, hình thức di cư là một phương thức để bảo
tồn, đẩy lùi xự xâm lấn các nền văn hóa khác vào bản sắc dân tộc họ.
Ông Tòng Văn Đỉnh, Phó trưởng phòng dân tộc huyện Tân Uyên cho hay, ở
Tây Bắc, người Thái, văn hóa Thái chiếm đa số, nếu họ ở chỗ, tộc người
kỳ lạ này sẽ bị văn hóa Thái đồng hóa. Hiện, bản sắc tộc người này đã và
đang bị mai một. Bằng chứng là họ đang sử dụng ngôn ngữ của người Thái.
Nhưng họ vẫn giữ được những nét tinh túy của dân tộc mình.
|
Ông Hoàng Văn Pun lấy bộ thẻ bói biểu diễn trước mắt phóng viên |
Nét đặc trưng trong văn hóa của tộc người kỳ lạ này còn lưu trữ lại
là phép toán tử vi và hai công cụ để xem tử vi: bộ lịch sườn trâu và bói
thẻ. Tuy nhiên, chỉ có số ít những lão cao niên trong bản mới biết cách
tính toán dựa trên hai công cụ đại diện cho văn minh tộc người này. Đến
ngay trưởng bản Sài Lương, ông Hoàng Văn Bun cũng chỉ, mới nghe kể lại
chứ chư bao giờ được thấy.
Theo chân ông Bun, chúng tôi tìm đến nhà ông Hoàng Văn Păn, người
cuối cùng trong bản còn lưu giữ bộ lịch quý giá, biểu tượng của nền văn
minh tộc người kỳ lạ này.
Tuy nhiên, khi đến nới chúng tôi mới té ngửa, bộ lịch ông thường mang
theo mình như một vật bất ly thân đã thất truyền gần 2 năm nay. “Tao
cũng dạy cho nhiều người, nhưng chẳng ai chịu học. Hồi đó có người hỏi
mua, tao bán mất rồi”, ông Păn cho hay.
Tuy bộ lịch sườn trâu, một báu vật truyền đời của cả tộc người này đã
biến mất nhưng ông Păn còn nhớ như in từng nhát khắc trên chiếc sườn
trâu dài chừng 30 phân này. Ông cho hay: “Nó hình cong, dài chừng 30 đến
35 phân, chiều rộng cỡ 2 phân, trên đó có mười đốt, mỗi đốt 3 vạch. Nhờ
nó, chúng tôi có thể tính được ngày tốt, ngày xấu để lên nương làm rẫy,
dựng vợ gả chồng cho con cháu trong bản…”
Vốn là một thầy mo, ông còn cho chúng tôi xem bộ thẻ bói 30 chiếc làm
bằng tre lứa. Ông chi sẻ, trước đây do ở quá xa, người bản bị bệnh
thường nhờ ông cúng để đuổi con ma, nhưng từ khi ra khu tái định cư,
không mấy khi sử dụng đến nó nữa.