Từ
khi thành lập Tổng cục Dạy nghề năm 1998, công tác quản lý nhà nước về
giáo dục nghề nghiệp do hai Bộ GD - ĐT và Bộ LĐ - TB và XH quản lý,
ngoài ra còn có các bộ, ngành cùng tham gia quản lý, thực hiện. Việc
phân khúc và có nhiều đầu mối quản lý đã và đang tạo ra những bất hợp
lý, làm hạn chế hiệu quả nguồn đầu tư và chất lượng giáo dục nghề
nghiệp.
Ở tầm vĩ mô, việc tách hệ
thống giáo dục nghề nghiệp làm hai mảng do hai bộ quản lý đã xuất hiện
những lỗi hệ thống. Cả hai bộ đều làm những việc gần như nhau về tuyển
sinh, xây dựng chương trình, giáo trình, bồi dưỡng, đào tạo giáo viên,
kiểm định chất lượng... dẫn đến lãng phí nguồn lực đầu tư. Đơn cử như
việc xây dựng chương trình đào tạo - công việc có ý nghĩa quan trọng
trong việc đổi mới giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng và hiệu quả
đào tạo - nhưng do không có sự phân biệt rõ về chương trình đào tạo
trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp và cao đẳng nghề, cao đẳng
chuyên nghiệp nên cả hai bộ cùng xây dựng bộ chương trình đào tạo . Hàng
năm Bộ GD - ĐT và Bộ LĐ - TB và XH phải chi hàng trăm tỷ đồng để xây
dựng chương trình đào tạo, chưa kể các trường xây dựng chương trình đào
tạo riêng cho ngạch dạy nghề và TCCN. Con số chi phí là nhân đôi, lãng
phí rất lớn.
Theo ngành dọc, ở các
địa phương các sở, ngành chức năng cùng tham gia quản lý giáo dục nghề
nghiệp trên địa bàn. Cụ thể ở Sở GD - ĐT các địa phương đều có Phòng
Giáo dục chuyên nghiệp để giúp lãnh đạo sở quản lý nhà nước về đào tạo
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng; còn ở Sở LĐ - TB và XH thì có Phòng
Quản lý dạy nghề có trách nhiệm quản lý các cơ sở dạy nghề trên địa bàn
gồm: các trường trung cấp nghề, cao đẳng nghề, các trung tâm dạy nghề và
các cơ sở khác có hoạt động dạy nghề… Việc tách giáo dục nghề nghiệp
thành hai mảng riêng biệt đã tạo ra nhiều bất hợp lý . Đơn cử trên địa
bàn cấp quận, huyện có các Trung tâm Dạy nghề, Trung tâm Giáo dục kỹ
thuật tổng hợp và hướng nghiệp, Trung tâm Giáo dục thường xuyên do hai
sở: GD - ĐT và LĐ - TB và XH cùng quản lý; việc cấp và quản lý vốn đầu
tư cũng được rót về theo hai kênh khác nhau. Thêm đầu mối quản lý, biên
chế phình ra, chi phí giao dịch hành chính tăng do phải qua nhiều cửa.
Bên
cạnh đó, do sự thiếu thống nhất về đầu mối quản lý nên xã hội không có
được số liệu tin cậy về số lượng nhân lực được đào tạo ra từ các cơ sở
dạy nghề để làm kế hoạch phát triển nhân lực. Không ai có thể trả lời
một cách chính xác chúng ta đã dạy nghề được bao nhiêu người trong những
năm qua, trong đó có bao nhiêu lao động có kỹ năng, có tay nghề cao...
Chưa hết, một cơ sở đào tạo chịu nhiều quy chế đào tạo chi phối do hai
ngành ban hành không có sự thống nhất dẫn đến những khó khăn trong việc
giảng dạy, kiểm tra đánh giá, xếp loại học lực và công nhận tốt nghiệp .
Do thiếu tính tiêu chuẩn về trình độ nên sự hội nhập quốc tế về xuất
khẩu lao động, hợp tác về giáo dục cũng hết sức khó khăn...
Mặt
khác, chính do nhiều đầu mối quản lý nên việc đầu tư cho giáo dục nghề
nghiệp thường phân tán, trùng lặp, gây thất thoát, lãng phí lớn. Theo
kết luận của Thanh tra Chính phủ về việc sử dụng vốn giai đoạn 2006-2010
cho dạy nghề vừa qua tại một số Sở LĐ - TB và XH và 40 cơ sở dạy nghề
tại các địa phương đã phát hiện sai phạm, lãng phí hơn 105 tỷ đồng. Đó
là chưa nói đến những thất thoát, lãng phí khác...
Nhiều
ý kiến cho rằng, sự không thống nhất cơ quan quản lý nhà nước về giáo
dục nghề nghiệp đang làm cho hệ thống giáo dục quốc dân bị cắt khúc,
chồng chéo quản lý ảnh hưởng đến quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục
nghề nghiệp, tính thống nhất trong thực hiện các chính sách phát triển
dạy nghề. Thiết nghĩ, cần có những nghiên cứu khoa học đánh giá những
mặt được, chưa được của mô hình quản lý giáo dục nghề nghiệp và phải xem
xét kinh nghiệm của các nước phát triển để làm cho giáo dục nghề nghiệp
tốt hơn, hiệu quả hơn.