Chi
cục Phát triển nông thôn (Sở NN-PTNT) cơ quan giúp UBND tỉnh thực hiện
nhiệm vụ quản lý Nhà nước về ngành nghề và làng nghề theo quy định của
Chính phủ cho biết, tới thời điểm hiện nay (tháng 7/2011) trên địa bàn
tỉnh có 3.000 cơ sở ngành nghề nông thôn, trong đó có 16 điểm cơ sở
nghề, làng nghề đang hoạt động.
Các làng nghề truyền thống có thời gian tồn tại trên 50 năm bao gồm 6
làng nghề dệt thổ cẩm K’Long (Đức Trọng), B’Nơ (Lạc Dương), Đạ Đờn (Lâm
Hà), Đạ Nghịch (Bảo Lộc), Buôn Go (Cát Tiên, Đạ Oai và Đam Ri (Đạ Huoai)
và 4 làng nghề trồng hoa tại Đà Lạt. Nghề truyền thống được xác nhận
gồm nghề làm gốm ở xã Próh và nghề đúc nhẫn bạc ở xã Tu Tra (Đơn Dương);
ngoài ra còn có 12 loại hình nghề truyền thống còn lưu truyền trong các
buôn làng như rèn, đan lát, rượu cần, điêu khắc, cưa lộng và bút lửa...
Những năm gần đây dưới tác động tích cực của kinh tế thị trường và sự
phát triển nhanh của sản xuất nông nghiệp một số làng nghề mới (làng
nghề có thời gian tồn tại đang dưới 50 năm) đã hình thành như làng nghề
ươm tơ - dệt lụa ở Nam Ban (Lâm Hà), Đạ Kho (Đạ Tẻh); làng nghề thêu
tranh lụa ở Đạ Lào (Bảo Lộc), Nam Ban (Lâm Hà) và tại Đà Lạt; làng nghề
chế biến nông sản ở Đà Lạt và Bảo Lộc. Toàn tỉnh hiện có 2.031 cơ sở và
hộ cá thể hành nghề mây, tre, đan tạo nên nhiều làng nghề mới ở các
huyện Đạ Huoai, Đạ Tẻh và Cát Tiên. Thống kê của Chi cục Phát triển nông
thôn, hiện tại toàn tỉnh có 10.000 lao động thường xuyên và 7.000 lao
động thời vụ tham gia hoạt động sản xuất các ngành nghề nông thôn với
thu nhập bình quân từ 1- 1,5 triệu đồng/người/tháng.
|
Nhà máy dệt lụa tơ tằm
Kimônô, Khu Công nghiệp Lộc Sơn, TP Bảo Lộc - một trong những doanh
nghiệp luôn đứng vững trên thị trường xuất khẩu. Ảnh NM |
Ngoài những thuận lợi về nguồn nguyên liệu (mây,tre, nứa…)khá phong phú
và được các cấp chính quyền, ngành nông nghiệp và các ngành liên quan
khuyến khích phát triển, nhưng đến nay làng nghề và ngành nghề nông thôn
ở Lâm Đồng vẫn phát triển hoàn toàn mang tính tự phát, thiếu vốn để đầu
tư mở rộng và thiếu lao động có tay nghề cao; Chủ yếu tồn tại ở quy mô
hộ gia đình và cơ sở quy mô nhỏ, sản phẩm của làng nghề và ngành nghề
nông thôn chưa mang tính hàng hóa cao, thiếu tính cạnh tranh, giá bán
thấp và thiếu ổn định; Một trong những yếu tố cản trở ngành nghề phát
triển là các địa phương chưa gắn kết được việc đào tạo nghề với việc sử
dụng lao động nông thôn sau khi được đào tạo, nên một số ngành nghề và
mặt hàng truyền thống - nhất là nghề gốm và nghề đúc bạc - đang đứng
trước nguy cơ thất truyền
Đứng trước thực trạng này, cùng với việc tăng cường công tác quản lý Nhà
nước như gắn phát triển làng nghề và nghề truyền thống với công tác bảo
vệ môi trường, xây dựng các hiệp hội ngành nghề và hiệp hội làng nghề,
giới thiệu sản phẩm… ngành nông nghiệp sẽ phối hợp với các ngành, các tổ
chức liên quan tăng cường công tác dạy nghề và hỗ trợ cho nông dân học
nghề, đầu tư kinh phí và quỹ đất để xây dựng và mở rộng làng nghề. Trước
mắt, những chủ trương này được triển khai ở những ngành hàng mang tính
chủ lực của địa phương như chế biến nông sản thực phẩm, đan lát (tre,
nứa, song, mây) và các làng nghề truyền thống. Riêng năm 2011 này theo
Quyết định 1946/QĐ-UBND của UBND tỉnh sẽ có 14.000 lao động nông thôn
được hỗ trợ học nghề, tại mỗi xã đang thực hiện xây dựng nông thôn mới
và xã và thôn nghèo ít nhất có từ 1 tơiù 3 lớp dạy nghề cho nông dân. Từ
nguồn vốn khoảng 20,45 tỷ đồng lồng ghép từ các chương trình 135 và
giảm nghèo, sẽ có 5 tỷ đồng dành cho hỗ trợ 2.000 lao động ở các làng
nghề mua sắm máy móc, phát triển sản phẩm mới… Sở NN-PTNT tỉnh vừa qua
cũng đã đề nghị Cục Chế biến nông - lâm sản và Nghề muối (Bộ NN-PTNT) tổ
chức việc đào tạo và nâng cao nghiệp vụ quản lý phát triển ngành nghề
nông thôn cho cán bộ chuyên trách lĩnh vực này của địa phương, hàng năm
hỗ trợ địa phương khoảng từ 5 đến 6 tỷ đồng vốn để triển khai có kết
quả hơn Dự án Bảo tồn và Phát triển ngành nghề nông thôn giai đoạn
2011-2015.
XUÂN ĐỨC
nguồn (baolamdong.vn)