“Phải chuyển nhận thức, quyết tâm
thành hành động và hành động quyết liệt để vượt qua sức ỳ của quá trình
khởi động, đặt tiến trình phát triển của đất nước vào quỹ đạo mới - Quỹ
đạo phát triển bền vững”, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh.
Báo điện tử Dân trí trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong thông điệp đầu năm mới 2012:
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng.
Tư tưởng kinh tế cốt lõi trong các văn kiện của Đại hội Đảng lần
thứ XI là tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo
đảm phát triển nhanh và bền vững. Tiền đề để thực hiện thành công nhiệm
vụ này là triển khai hiệu quả ba đột phá chiến lược; trong đó, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường vừa là một đột phá then chốt, có tác
động trực tiếp đến quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng,
lại là nhiệm vụ không đòi hỏi nhiều nguồn lực tài chính, nếu nhận thức
đúng và quyết tâm cao có thể hoàn thành cơ bản trong một thời gian tương
đối ngắn
I
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nước ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, đã huy động được các nguồn
lực cho phát triển, bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, tạo nhiều việc làm
và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, thể chế kinh tế thị
trường vẫn chưa đồng bộ, các yếu tố của kinh tế thị trường chưa hình
thành đầy đủ. Thị trường đất đai còn nhiều vướng mắc. Thị trường tài
chính phát triển không cân đối, thị trường trái phiếu còn sơ khai, thị
trường chứng khoán thiếu chiều sâu, chưa trở thành một kênh huy động vốn
quan trọng của nền kinh tế, đang dồn gánh nặng lên thị trường tín dụng,
làm cho thị trường này rất dễ bị tổn thương. Thị trường khoa học công
nghệ chậm phát triển. Thị trường lao động tuy đã khá hoàn chỉnh nhưng
chất lượng nguồn nhân lực thấp cùng với sự bất hợp lý về tiền lương giữa
các khu vực đang là rào cản lớn cho việc chuyển dịch lao động đến những
lĩnh vực thiết yếu trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công. Giá
cả một số hàng hóa và dịch vụ chưa bù đắp được chi phí, chưa theo cơ
chế thị trường, làm cản trở việc thu hút nguồn lực và công nghệ cao cho
phát triển
Thể chế kinh tế thị trường là một chỉnh thể gồm
nhiều loại thị trường vận động đồng bộ trong chỉnh thể đó. Một loại thị
trường không phát triển đầy đủ sẽ kìm giữ sự vận động của các thị trường
khác và làm cản trở sự vận động chung. Trong bối cảnh đó, rất dễ dẫn
đến sự can thiệp hành chính vào các quá trình kinh tế. Sự can thiệp này
có thể giải quyết những khó khăn trước mắt nhưng chi phí sẽ lớn hơn cơ
hội tạo ra và làm sai lệch quá trình phát triển. Rốt cuộc, những vấn đề
cơ bản vẫn không được giải quyết. Đây có thể là một nghịch lý trong sự
vận động của tư duy mà những người làm công tác quản lý phải nhận thức
được để có cách hành xử đúng đắn và nhất quán.
Từ thực tiễn này,
trong năm 2012, phải tập trung sức hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường theo quan điểm đã được Đại hội Đảng lần thứ XI xác định.
Trong
điều kiện toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, để đất nước có thể tăng
tốc phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, phải
xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại, tạo điều kiện cho các
nguồn lực dịch chuyển trong các ngành và đến các vùng của đất nước theo
tín hiệu của thị trường quanh trục lợi nhuận bình quân, bảo đảm sự phát
triển hài hòa, cân đối của nền kinh tế. Điều này sẽ kích thích các doanh
nghiệp phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng và sáng tạo công nghệ sản
xuất và công nghệ quản lý mới, tạo lập lợi thế cạnh tranh động để tìm
kiếm lợi nhuận vượt trội so với các chủ thể kinh doanh khác, qua đó thúc
đẩy sự chuyển dịch tương đối liên tục cơ cấu đầu tư, sản xuất, tạo ra
một nền kinh tế có khả năng sáng tạo cao với nhiều sản phẩm mới, bảo đảm
hiệu quả và sức cạnh của nền kinh tế. Đây chính là biện chứng của sự
phát triển
Phải từ những đặc điểm của thể chế kinh tế thị
trường hiện đại để làm chuẩn mực cho quá trình hoàn thiện thể chế. Có
thể nêu ra những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các loại
thị trường phát triển đồng bộ, các yếu tố của kinh tế thị trường hình
thành đầy đủ, vận động cùng nhịp, hỗ trợ lẫn nhau, cùng tương tác trong
một chỉnh thể thống nhất. Đây là điều kiện để thị trường vận hành thông
suốt, các nguồn lực dịch chuyển thuận lợi, được phân bổ hợp lý, hiệu
quả.
Trong năm 2012 và cả những năm tiếp theo, phải tập trung
sức sửa đổi Luật đất đai, tạo điều kiện hình thành loại thị trường này,
thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản; phát triển
thị trường trái phiếu, mở rộng thị trường bảo hiểm; phát triển mạnh thị
trường khoa học công nghệ. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với cải cách tiền lương, tạo
điều kiện cho thị trường lao động vận hành thông suốt. Kiên trì thực
hiện lộ trình giá thị trường đối với những sản phẩm Nhà nước còn định
giá...
Thứ hai, thể chế kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi phải
tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
thị trường. Cạnh tranh là thuộc tính của kinh tế thị trường, là một
trong những tiêu chí đo lường tính thị trường của nền kinh tế. Một thị
trường cạnh tranh cao có tác dụng kiềm giữ giá tốt hơn sự kiểm soát giá
của nhà nước. Điều quan trọng là cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải tiết
giảm chi phí, nâng cao năng suất, bảo đảm hiệu quả. Chính phủ sẽ chỉ đạo
rà soát, đánh giá mức độ cạnh tranh trong từng ngành sản xuất, dịch vụ,
loại bỏ sự phân biệt đối xử còn tồn tại trong thực tế giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh,
kiểm soát độc quyền tự nhiên; tăng cường năng lực của cơ quan bảo vệ
tài sản trí tuệ và cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các vụ
việc cạnh tranh không lành mạnh và lợi dụng vị thế thống lĩnh thị trường
để hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, thực hiện công khai minh bạch và
trách nhiệm giải trình về các chính sách quản lý, các đề án phát triển
cũng như trong hoạt động của các chủ thể kinh doanh. Thể chế kinh tế thị
trường cùng với tác động của quá trình mở cửa, hội nhập gắn liền với
việc hình thành cấu trúc đa sở hữu và cơ cấu đa chủ thể kinh tế dẫn đến
sự hình thành các “nhóm lợi ích”. Về khách quan, các “nhóm lợi ích” này
có thể tác động đến quá trình ra quyết định. Công khai minh bạch không
những tạo cơ hội bình đẳng trong tiếp cận thông tin, mà quan trọng hơn,
thực hiện công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình, tạo điều
kiện cho người dân giám sát các quyết định của các cơ quan quản lý, là
biện pháp cơ bản để ngăn ngừa tham nhũng và sự tác động của các “nhóm
lợi ích” vào quá trình ra quyết định, bảo đảm cho các quyết định theo
chuẩn “giá trị chung”, vì lợi ích của đất nước. Công khai minh bạch cũng
hạn chế đầu cơ, giảm chi phí kinh doanh và tăng hiệu quả của thị
trường.
Trong những năm qua, nhờ thực hiện Luật ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật cũng như hoạt động chất vấn trong các Kỳ họp
Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp, chúng ta đã đạt được những tiến
bộ rất lớn về thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
của các cơ quan Nhà nước. Tuy vậy, kết quả này vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu.
Từ quan điểm chính trị chủ đạo là Đảng và Nhà nước ta phải
bảo đảm quyền của người dân trong tiếp cận thông tin và phản biện xã
hội, Chính phủ sẽ nghiên cứu hoàn thiện các quy định về công khai thông
tin và quyền tiếp cận thông tin, đồng thời tăng cường đối thoại chính
sách, các đề án phát triển giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với các
chuyên gia độc lập và người dân, không chỉ ở công đoạn “hậu kiểm” như
đang làm hiện nay mà quan trọng hơn là ở công đoạn “tiền kiểm”, trước
khi các quyết định được ban hành. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất
lượng hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, tập trung vào những nội
dung thuộc chính sách phát triển và tác động của nó đến các tầng lớp dân
cư.
Thứ tư, thể chế kinh tế thị trường hiện đại trong điều kiện
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi
phải định vị lại mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Theo đó, Nhà
nước chuyển từ việc can thiệp trực tiếp vào các quá trình kinh tế sang
thực hiện chức năng kiến tạo phát triển: bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô,
tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh; tạo cơ chế phát
triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ công.
Một thách thức
đặt ra cho quản lý của Nhà nước trong điều kiện toàn cầu hóa là mỗi biến
động trên thị trường thế giới tác động rất nhanh, rất mạnh đến thị
trường trong nước. Tình hình đó đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao năng lực
dự báo và khả năng phản ứng chính sách nhằm hạn chế những tác động xấu
đến nền kinh tế. Kinh tế thị trường và toàn cầu hóa cũng làm cho một bộ
phận dân cư dễ bị tổn thương, làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo. Nhà
nước cần có các chính sách đúng đắn, sử dụng những công cụ điều tiết
nhằm khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu
hoá, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.
Cần khẳng định rằng thị trường hoạt động theo quy luật của nó, trước
hết là quy luật cạnh tranh, quy luật lợi nhuận. Sự phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là chức năng của Nhà nước. Một mặt, Nhà nước cần
phát huy “sức mạnh tự điều chỉnh” của thị trường, mặt khác phải “hoá
giải” được tác động tiêu cực của thị trường, bảo đảm định hướng của sự
phát triển. Từ đó, vai trò của Nhà nước không hề giảm đi mà phải được
tăng cường trên những nội dung mới, theo những phương thức tác động mới.
Phải từ những quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa mà Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra mà hoàn thiện bộ máy
nhà nước các cấp cả về chức năng, cơ cấu tổ chức, các quy định về phân
cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường.
Thứ
năm, một thể chế kinh tế thị trường hiện đại phải hướng về người tiêu
dùng, lấy người tiêu dùng làm chủ thể. Phải không ngừng hoàn thiện các
thiết chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát triển các trung tâm bảo
vệ người tiêu dùng. Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo hoàn thiện các tiêu
chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm; tăng cường công
tác kiểm tra hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá lưu thông trên thị trường
nội địa; bổ sung các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm. Rà soát, hoàn
thiện các văn bản hướng dẫn Luật bảo vệ người tiêu dùng để đưa pháp luật
vào cuộc sống; tạo lập các cơ sở pháp lý để khuyến khích phát triển các
tổ chức phi chính phủ về bảo vệ người tiêu dùng.
Một thể chế
kinh tế thị trường hiện đại với những đặc điểm nêu trên sẽ tạo điều kiện
để đất nước tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong một thế giới
đang toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng và cạnh tranh gay gắt.
II
Khi nói các đột phá chiến lược là tiền đề của tái cơ cấu nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng hoàn toàn không có nghĩa là phải
đợi thực hiện xong các đột phá mới thực hiện tiến trình này. Các tiền
đề đã hình thành và sẽ được hoàn thiện trong suốt quá trình phát triển.
Tái cơ cấu là công việc diễn ra tương đối liên tục dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh
giữa các quốc gia cũng như trong từng doanh nghiệp. Chính trên quan
điểm đó và từ tầm nhìn của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020, Hội nghị Trung ương 3 khóa XI đã đặt yêu cầu thực hiện tái cơ cấu
nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng ngay trong thời kỳ kế hoạch
2011 - 2015.
Mục tiêu của tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng là thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu các
ngành sản xuất, dịch vụ theo yêu cầu nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế để có
thể tham gia vào những công đoạn có giá trị gia tăng cao trong mạng sản
xuất và chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Theo mục tiêu này, quá trình
tái cơ cấu kinh tế sẽ được thực hiện đồng bộ trên các nội dung sau:
Một
là , tái cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ. Trong công nghiệp là
chuyển từ một ngành công nghiệp gia công lắp ráp có hàm lượng khoa học
công nghệ và giá trị gia tăng thấp, sang phát triển các ngành chế tạo và
chế biến có giá trị gia tăng cao, tập trung phát triển các sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ và một số sản phẩm công nghệ cao mà nước ta có tiềm
năng và lợi thế.
Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ, nhất là
các ngành là “mạch máu” của nền kinh tế như các dịch vụ tài chính, nâng
cao năng lực quản trị, bảo đảm phòng tránh rủi ro và an toàn hệ thống.
Phát triển các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh, đổi mới cơ chế nhằm khuyến khích phát triển và nâng cao chất
lượng các dịch vụ công.
Trong nông nghiệp là phát triển nền nông
nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; gắn phát
triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống nông
dân. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông
thôn. Đưa công nghiệp và khoa học công nghệ tác động vào nông nghiệp
trên tất cả các công đoạn từ nuôi trồng, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản,
chế biến đến phân phối. Gắn việc áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức
sản xuất, phát triển các mô hình sản xuất lớn, từng bước hình thành các
tổ hợp nông công nghiệp công nghệ cao; gắn kết các công đoạn của quá
trình tái sản xuất trong một chuỗi giá trị bảo đảm phân phối hài hòa lợi
ích giữa các công đoạn trong chuỗi gia trị đó. Đây là con đường cơ bản
để phát triển nông nghiệp bền vững.
Hai là, tái cơ cấu doanh
nghiệp. Quá trình tái cơ cấu nền kinh tế được mở đường từ các chính sách
vĩ mô nhưng lại phải được thực hiện trong từng doanh nghiệp. Tái cơ cấu
doanh nghiệp là cơ sở tạo nên diện mạo mới của nền kinh tế. Để tái cơ
cấu doanh nghiệp, phải ứng dụng những thành tựu mới nhất về khoa học
công nghệ trong sản xuất và quản lý, phải đổi mới mô hình tổ chức và
phương pháp quản trị doanh nghiệp phù hợp với sự thay đổi công nghệ sản
xuất và sự phát triển của thị trường nhằm tăng sức cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Ba là, điều chỉnh chiến lược thị trường. Toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế mở ra thị trường rộng lớn cho doanh nghiệp
tăng khả năng tận dụng lợi thế do quy mô các dự án đầu tư và tiêu thụ
sản phẩm. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng làm tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế, nhất là những nền kinh tế có độ mở lớn như nước
ta. Điều đó cũng dễ dẫn đến những bất định nhiều khi vượt khỏi khả năng
dự báo. Vì vậy, phải đa dạng hóa sản phẩm và thị trường xuất khẩu, hạn
chế sự lệ thuộc vào một số ít thị trường, đồng thời phải hết sức coi
trọng thị trường nội địa, nhất là địa bàn nông thôn. Đối với thị trường
xuất khẩu, điều quan trọng không chỉ là tăng xuất khẩu vào từng quốc
gia, vùng lãnh thổ mà là xâm nhập vào chuỗi giá trị trong bối cảnh mạng
sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu ngày càng phát triển. Tình hình đó
đặt ra yêu cầu phải hình thành chuỗi cung ngay trên thị trường trong
nước. Đây là con đường để phát triển thương mại bền vững.
Gắn
kết và thực hiện đồng thời với tái cơ cấu các lĩnh vực nêu trên là tái
cơ cấu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội theo một quy
hoạch và một hệ thống phân cấp được rà soát chặt chẽ theo tầm nhìn dài
hạn và tư duy liên vùng. Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán,
tập trung cho các công trình thiết yếu, sớm đưa vào khai thác, tạo điều
kiện cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển thuận lợi đến những vùng có
tiềm năng phát triển, góp phần giảm chi phí vận tải, nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế. Giảm tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư
xã hội; hoàn thiện cơ chế khuyến khích để thu hút mạnh đầu tư của khu
vực tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài, phát triển các phương thức
đầu tư, đặc biệt là phương thức hợp tác công - tư (PPP), nâng cao hiệu
quả đầu tư.
Các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế phải được thực
hiện trong suốt quá trình công nghiệp hóa nhưng phải được bắt đầu ở
những lĩnh vực cấp bách nhất, đó là tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu
tư công; tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống các ngân
hàng thương mại và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các
tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước. Sự lựa chọn này là rất đúng
đắn và cần thiết vì đây là những lĩnh vực hiệu quả còn thấp, chưa tương
xứng với nguồn lực bỏ ra và tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn kinh tế vĩ mô,
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Tái cơ
cấu các lĩnh vực này còn có tác động thúc đẩy quá trình tái cơ cấu theo
các nội dung toàn diện nêu trên. Chính phủ đang chỉ đạo sát sao việc xây
dựng đề án tái cơ cấu trong từng lĩnh vực để triển khai mạnh mẽ theo
những quy trình chặt chẽ cho từng bước với những mục tiêu cụ thể đặt ra
cho mỗi bước, xác định rõ các tiêu chí đo lường và đánh giá kết quả. Yêu
cầu đặt ra là phải bảo đảm sự đồng bộ khi thực hiện tái cơ cấu các lĩnh
vực nói trên do mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng, đồng thời tăng
cường công tác giám sát việc thực hiện ở mỗi Bộ, ngành, địa phương và
từng doanh nghiệp, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, không gây xáo động
lớn cho nền kinh tế, “rút dây” mà không “động rừng”.
Tái cơ cấu
nền kinh tế đặt ra yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Ngược lại,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng là nội dung cơ bản của tái cơ cấu doanh
nghiệp, là điều kiện để tăng hiệu suất sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế, có tác động mạnh mẽ đến tái cơ cấu đầu
tư và tái cấu trúc thị trường tài chính, góp phần giảm thiểu chi phí của
quá trình tái cơ cấu. Phải chuyển mạnh từ tăng trưởng theo chiều rộng
dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên đang ngày càng cạn kiệt và
nguồn nhân lực chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng dựa vào việc áp
dụng những thành tựu của khoa học công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng
cao và phương pháp quản trị hiện đại; nâng cao mức đóng góp của các yếu
tố tổng năng suất vào tăng trưởng. Phát triển mạnh công nghiệp chế tạo,
chế biến, nhất là các ngành công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, giảm
tỷ trọng của công nghiệp gia công trong tổng giá trị sản xuất công
nghiệp.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng vừa là yêu cầu cấp bách
vừa là nhiệm vụ lâu dài, gắn với phát triển nguồn nhân lực và quá trình
đổi mới công nghệ sản xuất và quản lý. Để thúc đẩy quá trình chuyển đổi
mô hình tăng trưởng, trong năm 2012, cùng với việc sớm phê duyệt đề án
phát triển thị trường công nghệ, Chính phủ sẽ ban hành các chính sách
khuyến khích đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp; quy định tiêu
chuẩn công nghệ trong Luật Đầu tư công và các dự án đấu thầu; khuyến
khích mạnh các dự án áp dụng công nghệ mới và các dự án có lập trung tâm
nghiên cứu phát triển công nghệ; tăng cường hợp tác công - tư trong
việc hình các quỹ đầu tư mạo hiểm về khoa học công nghệ… Xây dựng văn
bản pháp lý cao hơn để phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Cùng với
tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong năm 2012
phải tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo trong kết luận số 02 của Bộ
Chính trị, Nghị quyết số 11 của Chính phủ, tăng cường ổn định vĩ mô,
kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội.
Đây là những nhiệm vụ rất nặng nề và khó khăn, nhất là trong bối cảnh
kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp, thậm chí có nguy cơ rơi vào
vòng suy thoái mới, đòi hỏi phải có sự nỗ lực vượt bậc của các ngành,
các cấp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường, tạo cơ chế, chính
sách và chỉ đạo thực hiện nhưng kết quả phải được phản ánh trên từng cơ
sở sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp phải là chủ thể, có vai
trò quyết định.
Chúng ta có thuận lợi cơ bản là đã tạo được sự
thống nhất cao về nhận thức trong cả hệ thống chính trị, có sự quyết tâm
cao trong các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương và
cộng đồng doanh nghiệp. Phải chuyển nhận thức, quyết tâm thành hành động
và hành động quyết liệt để vượt qua sức ỳ của quá trình khởi động, đặt
tiến trình phát triển của đất nước vào quỹ đạo mới - Quỹ đạo phát triển
bền vững.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
( Nguồn : dantri.vn )