Hiện
nay, nước ta có khoảng 2.790 làng nghề, thu hút 1,42 triệu hộ gia đình
tham gia, với khoảng 1,35 triệu lao động chính và hàng triệu lao động
phụ trong lúc nông nhàn, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời
sống của cư dân nông thôn
. Sự phát triển của làng nghề góp phần đáng kể
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương. Tại nhiều làng nghề, tỷ
trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60% - 80% và ngành nông nghiệp
chỉ đạt 20% - 40%.
Những thay đổi trong xu thế hội nhập
kinh tế vừa mang lại những thuận lợi vừa tạo ra thách thức đối với các
làng nghề trong quá trình phát triển. Mở cửa, hội nhập, các làng nghề có
cơ hội giới thiệu sản phẩm của mình với khách nước ngoài
. Theo thống
kê, hiện hàng hóa của các làng nghề nước ta như thủ công mỹ nghệ, thêu
ren, gốm sứ... đã có mặt ở hơn 100 nước trên thế giới với kim ngạch xuất
khẩu ngày càng tăng. Nếu như năm 2004, kim ngạch xuất khẩu mới đạt 450
triệu USD, thì năm 2008 đã tăng lên hơn 776 triệu USD. Theo số liệu
thống kê của Tổng cục Hải quan trong tháng 4/2009, kim ngạch xuất khẩu
sản phẩm thủ công mỹ nghệ đạt được gần 14,07 triệu USD
. Tính chung 4
tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 58,30
triệu USD, tuy có giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lại tăng
23,3% so với kế hoạch năm đề ra. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ dự kiến phải đạt 1,5 tỷ USD.
Cùng với những thay đổi tích cực,
các làng nghề cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong
quá trình phát triển. Các làng nghề truyền thống không chỉ mang ý nghĩa
là giữ gìn nét văn hoá truyền thống dân tộc, mà còn tạo ra nhiều công ăn
việc làm cho người dân, giúp người dân nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống . Việc phát triển làng nghề vừa góp phần bảo tồn giá trị văn hóa
của dân tộc vừa nâng cao đời sống của cư dân nông thôn
. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để phát huy được hết những lợi ích của các làng nghề ở Việt
Nam và để làng nghề Việt Nam có thể phát triển một cách bền vững?
Cần phải có khoa học và công nghệ
Nhấn
mạnh đến vai trò của KH&CN trong việc phát triển làng nghề ở Việt
Nam, ông Lưu Duy Dần, Phó Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam khẳng
định, KH&CN là rất cần thiết, “cần phải thấy rằng, làng nghề rất cần
có sự kết hợp của khoa học công nghệ hiện đại với khoa học truyền thống
để có thể phát triển bền vững”. Trong các ngành nghề thủ công như việc
sản xuất gốm, việc chuyển từ khi đốt bằng than củi, chuyển sang than đá
và đến hiện nay là ga đã giúp đẩy nhanh tiến độ công việc, giảm tải sức
lao động đồng thời nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm
. Đối với đồ
gỗ cũng vậy, công nghệ cũ phần lớn sản xuất theo thủ công, với việc ứng
dụng tiến bộ KHCN, người ta đã kết hợp với máy móc, cơ khí để nâng cao
năng suất và tận dụng được nhiều hơn các loại vật liệu
. Cành cây, gốc
cây, mùn cưa đều có thể đưa vào để tạo thành tạo thành các sản phẩm...
Sự tiến bộ của KH&CN đã góp phần giúp sản phẩm của làng nghề được
đứng vững và phát triển bền vững trên thị trường. Theo đó, người nghệ
nhân luôn tranh thủ tiến bộ công nghệ để áp dụng trong sản xuất nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa của mình.
Trên
thực tế, việc kết hợp tay nghề người thợ thủ công việc ứng dụng khoa
học công nghệ mới vào sản xuất, các sản phẩm thủ công Việt Nam có chất
lượng ngày càng cao, đa dạng về kiểu dáng, phong phú về chủng loại, bền
đẹp được nhiều người tiêu dùng trong nước và thế giới ưa chuộng. Tiêu
biểu như với gốm bát Tràng, nhờ có sự ứng dụng công nghệ sản xuất mới đã
đưa sản phẩm gốm Bát Tràng từ dạng thủ công thuần tuý tới dạng sản phẩm
kết hợp giữa tính dân tộc và tính hiện đại. Các công đoạn trong công
nghệ về lò nung, việc phân loại đất... được ứng dụng, tận dụng đưa vào
tạo ra những sản phẩm “tinh”, giúp tạo ra các loại hoa văn đẹp hơn, tinh
xảo hơn
. Hay với tranh sơn mài, đây là sự tìm tòi và phát triển kỹ
thuật của nghề sơn thủ công truyền thống của Việt Nam thành kỹ thuật
sơn mài riêng. Hiện nay, kỹ thuật này đã được kết hợp sử dụng với nguyên
liệu là sơn Nhật Bản và tạo ra một sản phẩm mới ở một kỹ năng bền hơn,
đẹp hơn, được ưa chuộng tại nhiều nước
. Việc ứng dụng công nghệ mới nhằm
tăng năng suất và chất lượng một số mặt hàng xuất khẩu, trong đó mây
tre đan là mặt hàng chủ lực, cũng đã được triển khai thực hiện ở làng
nghề sản xuất mây tre đan.
Bên cạnh lĩnh vực sản xuất thì việc
ứng dụng KH&CN trong lĩnh vực bảo vệ môi trường làng nghề, quản lý
chất lượng và xây dựng thương hiệu sản phẩm... cũng rất quan trọng và
cần có sự quan tâm đúng mức. Như thế, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa
học kỹ thuật tiên tiến phục vụ phát triển bền vững làng nghề truyền
thống là một trong những giải pháp quan trọng cần được tiếp tục nghiên
cứu và thực hiện
. Theo ông Lưu Duy Dần việc “hiện đại hóa công nghệ
truyền thống, truyền thống hóa công nghệ hiện đại là điều cần thiết. Hai
yếu tố đó gặp nhau sẽ tạo ra sản phẩm tinh, có thể giúp sản phẩm của
chúng ta bắt nhịp, hòa nhập được với quốc tế và khu vực”.
Những vướng mắc...
Quá
trình triển khai các ứng dụng KH&CN cho các làng nghề còn gặp nhiều
khó khăn như vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng cho làng nghề, quy hoạch vùng
nguyên liệu ổn định, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao để có thể
tiếp cận với các lĩnh vực KHCN mới, hay sự quan tâm của nhà nước, các
nhà khoa học đối với các làng nghề...
Hiện nay, có
không ít làng nghề bị mai một theo thời gian. Chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta cũng luôn quan tâm, khuyến khích và có những chính sách ưu đãi
đối với làng nghề truyền thống
. Nhưng thực tế, việc khôi phục và phát
triển làng nghề truyền thống thời gian qua ở các địa phương vẫn còn
nhiều bất cập. Nhiều làng nghề truyền thống còn hạn chế trong việc đầu
tư cải tiến công nghệ, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất,
chưa có định hướng lâu dài trong phát triển. Trong khi đó, việc đầu tư
cho các làng nghề truyền thống thời gian qua chưa được các ngành, các
cấp chú ý
. Theo đánh giá của các ngành chức năng, trình độ lao động
trong các làng nghề truyền thống hiện nay còn thấp, hầu hết chưa được
đào tạo, chỉ thông qua hình thức “cha truyền con nối”, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau từ người đi trước, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất
hàng hóa xuất khẩu. Vì thế chủng loại, mẫu mã được sản xuất từ các làng
truyền thống chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Ông
Lưu Duy Dần cho biết, điều khó khăn hiện nay đối với các làng nghề ở
nước ta đó là sự phân tán của các làng nghề và làm thế nào công nghệ
phải bám sát thực tế để người dân có thể nhận thức và áp dụng một cách
hiệu quả. Bên cạnh đó, vấn đề thương mại điện tử nhằm đẩy nhanh, bắt
cuộc nhanh, hòa nhập được với quốc tế và khu vực cũng là vấn đề rất cần
thiết đối với việc phát triển các làng nghề
. Các chính sách quan tâm, hỗ
trợ từ phía nhà nước, với những giải pháp tích cực, bám sát với thực tế
đời sống nông thôn cũng là một vấn đề cần giải quyết triệt để.
Hướng phát triển làng nghề Việt Nam
Để
khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải tiến tới sản xuất bền vững cả về sản
lượng, chất lượng sản phẩm. Làm được điều đó, cần phải xem làng nghề
truyền thống là một bộ phận chính trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, không nên xem đây là một nền kinh tế phụ để giải
quyết những lao động nhàn rỗi ở những vùng nông thôn
. Theo đó, cần đẩy
mạnh công tác quy hoạch các làng nghề truyền thống phù hợp với điều kiện
của từng vùng để tạo thu nhập cho người lao động, đồng thời phát huy
được bản sắc văn hóa đặc thù của các địa phương…
Cần
phải thực hiện các hoạt động cụ thể như kêu gọi sự tham gia của người
dân cũng như các tổ chức kinh tế xã hội nhằm thúc đẩy quá trình phát
triển của các làng nghề; mở các khóa đào tạo về kỹ năng, các hội thảo
chia sẻ, tiếp thu kinh nghiệm; thường xuyên theo dõi, giám sát, đánh giá
kết quả các dự ứng dụng: chọn lựa lĩnh vực phù hợp để ứng dụng; chuyển
giao KHCN cho người dân
; tăng cường công tác kiểm tra, bảo vệ môi
trường; khuyến khích các làng nghề, cơ sở sản xuất xây dựng hệ thống xử
lý nước thải… trước khi thải ra môi trường; quy hoạch các khu, cụm làng
nghề; đưa các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư…
Theo ông Lưu Duy Dần, để KH&CN
thực sự phát huy hiệu quả, các nghiên cứu khoa học cần phải bám sát yêu
cầu của thực thực trạng các làng nghề và làng nghề phải tận dụng tối đa
khả năng công nghệ có sẵn của địa phương, ứng dụng phù hợp các tiến bộ
KHCN. Ông nhấn mạnh “đã đến lúc, nhà nước và cụ thể là các bộ ngành liên
quan, cần phải có những chính sách quan tâm, hỗ trợ cụ thể thành một
hướng như chỉ thị của các ban ngành, của trung ương đối với các nhà khoa
học, các làng nghề, để việc bảo tồn và phát triển làng nghề được quan
tâm một cách toàn diện hơn nữa.