Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống – rất cần một hệ thống chính sách đồng bộ của Nhà nước
(Langnghevietnam) –Ban biên tập Làng nghề Việt Nam xin được đăng nguyên văn bài
tham luận “Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống – rất cần một hệ thống chính
sách đồng bộ của Nhà nước” của TS.
Tôn Gia Hoá – Phó Chủ tịch Hiệp hội LNVNVN.
TS. Tôn Gia
Hoá – Phó Chủ tịch Hiệp hội LNVNVN
Căn cứ vào quy định
của Nhà nước thì một nghề được công nhận là “Nghề truyền thống” phải đạt được 3
tiêu chí:
-
Nghề
đã xuất hiện ở địa phương từ trên 50 năm;
-
Nghề
tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc;
-
Nghề
gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của Làng nghề.
Những quy định cụ thể
và có tính định lượng này đã chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước tới các nghề
truyền thống. Đây cũng là những cơ sở để điều chỉnh các chính sách mọi mặt tác
động đến “Nghề truyền thống” và dĩ nhiên từ đó tác động trực tiếp đến các sản
phẩm truyền thống.
Đánh giá đúng đắn vai
trò của các nghề truyền thống nên trong Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây
dựng nông thôn mới, Nhà nước cũng đã quy định cần thực hiện nội dung: “ Bảo tồn
và phát triển làng nghề theo hướng mỗi làng một sản phẩm”.
Những định hướng cơ
bản của Chính sách có thể đã tương đối đầy đủ cho các cấp, các ngành từ trung
ương đến địa phương vận dụng với mục tiêu bảo tồn và phát triển nghề truyền
thống. Có thể đánh giá đây là thuận lợi rất lớn và thực tế, theo đánh giá của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sau 5 năm thực hiện Nghị định 66/2006/NĐ-CP
về phát triển ngành nghề nông thôn, đến năm 2001 đã có 1.324 làng nghề và làng
nghề truyền thống được công nhận (Trong tổng số 4.575 làng có nghề trong cả
nước) Tổng giá trị sản xuất ngành nghề nông thôn chỉ mới theo báo cáo của 30
tỉnh, thành phố năm 2010 đã đạt 78.195 tỷ đồng. Số lượng doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất và hộ tham gia Ngành nghề nông thôn cũng phát triển, đặc biệt là Hà
Nội, Thanh Hóa, Ninh Bình, Phú Thọ, Nam Định…
Những con số trên
phần nào thể hiện sự tác động của chính sách đối với phát triển các loại hình
ngành nghề ở nông thôn, tất nhiên trong đó một bộ phận quan trọng là các nghề
truyền thống. Mặc dù vậy, với những đặc thù riêng biệt, nhiều nghề truyền thống
đang chịu những tác động tiêu cực, rất khó chống đỡ, thậm chí có những nghề đã
bị thất truyền hoặc đứng trước nguy cơ bị thất truyền nếu không có một động
thái hỗ trợ đặc biệt.
Các làng đúc đồng Ngũ
Xã, giấy Yên Thái, cốm làng Vòng, hương Yên Phụ, gốm Bát
Tràng, tranh Hàng Trống... những tên nghề, tên làng đã một thời là niềm tự hào
riêng của người Hà thành. Nhưng đến nay, nghề còn, nghề mất, nghề đang bị cơ
chế thị trường cuốn vào một cơn lốc mới...
Làng tranh Đông Hồ
(Bắc Ninh) nổi tiếng, giờ chủ yếu làm đồ Vàng mã, Nghề dệt thổ cẩm của đồng bào
ở nhiều vùng dân tộc thiểu số cũng nơi còn, nơi mất…Nếu chúng ta làm một thống
kê về những nghề truyền thống đã thất truyền hoặc đứng trước nguy cơ thất
truyền thì chắc chắn đó là một con số dài và đáng lo ngại là con số sẽ không
dừng lại ở đó.
Nguyên nhân khiến cho
nhiều nghề truyền thống bị mai một có lẽ chính là do sự phát triển nhanh của
nền kinh tế thị trường với sự góp sức của khoa học, kỹ thuật tiên tiến. Những
nghề xưa, từng nuôi sống nhiều hộ gia đình trong những lúc “nông nhàn” không
còn có cơ hội phát triển vì lực lượng lao động chính đang bị thu hút vào các
khu công nghiệp mọc lên khắp làng quê. Nhu cầu sử dụng của con người cũng xa
dần với những vật dụng bằng mây tre mộc mạc để đến với đồ nhựa, đồ điện tử có
nhiều mẫu mã, hình thức tinh xảo, tiện dụng…
“Bảo tồn và phát triển
làng nghề truyền thống” là một hướng đi rất phù hợp mà Nhà nước cần đặc biệt
quan tâm trong giai đoạn hiện nay với định hướng rõ rệt, tuy nhiên cần phân
biệt rõ những nghề nào cần “Bảo tồn” và nghề nào có thể “Phát triển”.
“Nghề truyền thống”
vốn dĩ hình thành từ nhu cầu đời sống của người dân và đã trải qua hàng thập
kỷ, thậm chí hàng thế kỷ. Chính vì lý do đó mà Bảo tồn và phát triển nó cũng
phải do chính nhu cầu của các nghệ nhân, cộng đồng làng nghề đó tự quyết định.
Từ lý lẽ này mà xét thì Chính sách của Nhà nước trong lĩnh vự này phải phù hợp
với nguyện vọng của Người dân, đáp ứng được lợi ích thực sự của các nghệ nhân,
thợ thủ công, những người “thổi hồn” cho các sản phẩm để tạo nên “Nghề truyền
thống”.
Để bảo tồn hay phát
triển một làng nghề truyền thống nào đó, không đơn giản là lo xây dựng cơ sở hạ
tầng, đường xá… mà cốt lõi là phải làm cho sản phẩm làng nghề có chỗ đứng trên
thị trường, có nghĩa là Người nghệ nhân phải sống được bằng nghề truyền thống
như hàng trăm năm trước đây cha ông họ đã vì kiếm sống mà sản sinh ra nghề.
Chính sách nhà nước nên lấy đối tượng chính là người thợ, để có thể giữ họ và
con cái họ ở lại với nghề.
Thực tế đã chứng minh
những khả năng bất tận của người thợ thủ công Việt Nam trông công cuộc bảo tồn nghệ
nghiệp của cha ông. Những sản phẩm
một thời tưởng chừng đã chôn vùi trong lớp bụi thời gian như trang phục, trang
sức quý tộc Nguyễn, những nghi cụ bằng vàng bạc, đồng, giấy, vải, những tác
phẩm khảm sành sứ, sơn mài, thếp vàng, gốm sứ, pháp lam…, trên thực tế, đã dần
dần được phục chế thành công trong các di tích và bảo tàng. Những dòng tranh
Đông Hồ, Hàng Trống…đến nay chỉ còn vài ba nghệ nhân theo đuổi nhưng vẫn gìn
giữ được bản sắc truyền thống xưa…, còn nhiều nghề truyền thống nữa đã và đang
được bảo tồn một các có hiệu quả mà chính là nhờ tâm huyết của những nghệ nhân
lành nghề.
Căn cứ vào 3 tiêu chí của một nghề truyền thống, chúng ta dễ
dàng nhận thấy:
- Tiêu chí về thời gian thì bản thân mỗi nghề đã có, tác động
của chính sách phải chăng chỉ là cơ sở để nghiên cứu, xác định thời điểm hình
thành và giá trị lan tỏa của nó trong các giai đoạn lịch sử của đất nước.
- Tiêu chí về việc sản phẩm phải mang bản sắc văn hóa dân tộc, có lẽ đây
là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm. Theo tôi Chính sách của Nhà nước nên
hướng tới đối tượng các nghệ nhân, những người sẽ làm cho sản phẩm của mình
hoặc thể hiện được bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, hoặc cũng chính họ sẽ
làm mất đi bản sắc đó. Trong bối cảnh có nhiều tác động, các sản phẩm truyền
thống dễ bị pha tạp, xa dần những giá trị vốn có để đáp ứng những thị hiếu nhất
thời. Việc truyền nghề có lúc bị gián đoạn, nghệ nhân không trực tiếp tiếp thu
từ cha ông mình mà chỉ theo xu hướng thị trường. Đây chính là chỗ mà chính sách
Nhà nước cần tác động, khôi phục truyền thống truyền nghề trong mỗi gia đình
Nghệ nhân Nghề truyền thống, đối xử với các nghệ nhân lành nghề như những nhà
giáo, nhà sư phạm…và người học nghề cũng được hưởng những chế độ như học sinh,
sinh viên ở các trường dạy nghề. Thiết nghĩ đây không phải là một đòi hỏi quá
đáng trong bối cảnh những nghề truyền thống chính là bản sắc văn hóa của dân
tộc cần phải gìn giữ cũng như những sáng tác văn học hay các tác phẩm kiến trúc
đền chùa…
- Tiêu chí Nghề phải gắn với tên tuổi của một
hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề. Nếu đã là một nghề truyền
thống thì tiêu chí này dễ đạt được. Tuy nhiên đây cũng là một nguyên cớ để
chúng ta nhắc đến một mảng chính sách khá quan trọng mà lâu nay rõ ràng là chưa
được thực hiện tốt. “Vinh danh” các nghệ nhân ở tầm cỡ Quốc gia rõ ràng là việc
của các cơ quan quản lý Nhà nước. Chúng ta có các danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú”
và “Nghệ nhân nhân dân” tương đương với các danh hiệu “Nghệ sỹ ưu tú”, “Nghệ sỹ
nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”, “nhà giáo nhân dân”… thử hỏi đến nay chúng ta đã
phong tặng được bao nhiêu Nghệ nhân ưu tú , nghệ nhân nhân dân (?) và con số đó
có tương xứng với công lao của các nghệ nhân đã trải qua bao nhiêu thế hệ làm
nghề tạo nên một bản sắc văn hóa Việt Nam như hiện nay(?). Thiết nghĩ đây không
còn là vấn đề “chính sách” mà việc cần bàn lại là vấn đề “Thực hiện chính sách”
như thế nào, việc này đòi hỏi một cái “TÂM” của người cầm chịch và cái “TẦM”
của bộ máy quản lý.
Để nâng cao giá trị văn hóa-du lịch cho các làng nghề truyền
thống Việt Nam
thì việc Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống là công việc hết sức cần
thiết. Chính sách của Nhà nước sẽ chỉ có hiệu quả thiết thực nếu tham gia giải
quyết được những vấn đề cốt lõi với sự tham gia chủ động của các nghệ nhân, thợ
thủ công.
TS. Tôn Gia Hoá – Phó
Chủ tịch Hiệp hội LNVNVN