(langnghevietnam.vn) – “Giá trị văn hóa, du lịch của sản phẩm Làng nghề truyền thống Việt Nam” là cuộc
hội thảo hội tụ những bài tham luận đặc sắc của các đại biểu. Ban biên tập Làng
nghề Việt Nam trân trọng đăng nguyên văn bài tham luận “Phát huy giá trị Văn
hóa Du lịch của Làng nghề truyền thống” của ông Lưu Duy Dần - Chủ Tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam diễn ra
vào ngày 16/10 vừa qua.
“Trải qua bao thăng
trầm của lịch sử, những làng nghề, phố nghề vẫn tồn tại minh chứng cho sức sống
mãnh liệt của mạch nguồn văn hóa kết tinh qua mấy nghìn năm. Bằng trí tuệ và
đôi bàn tay tài hoa, các nghệ nhân người Việt đã bền bỉ gìn giữ và phát triển
những làng nghề truyền thống, di sản văn hóa Việt Nam.
Ông Lưu Duy Dần - Chủ Tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam (Ảnh minh họa)
Làng nghề là cả một
môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội và công nghệ lâu đời. Văn hóa làng nghề
luôn gắn với làng quê, các hoạt động lễ hội, phường hội mang đậm nét dân gian
và chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Các làng nghề thường là những làng văn hóa
cổ, với kiến trúc độc đáo, một số làng nghề là làng khoa bảng, làng Việt cổ như
làng dao kéo Đa Sĩ có rất nhiều người đỗ đạt trong đó có danh y Hoàng Đôn Hòa
nổi tiếng, làng gốm cổ truyền Bát Tràng có 25 tiến sĩ trong đó có một trạng
nguyên. Thật độc đáo là các sản phẩm làng nghề thể hiện được tinh hoa, bản sắc
văn hóa dân tộc. Khi khai quật di chỉ khảo cổ học Hoàng Thành Thăng Long cách
đây nghìn năm ai cũng thấy rõ vai trò của làng nghề trong việc xây dựng kinh
thành. Từ những viên gạch, viên ngói, đầu rồng đến những vật dụng sinh hoạt gốm
sứ bị chon vùi dưới đất qua bao thời đại vẫn còn giữ nguyên nét tinh xảo, tài
hoa của bàn tay khối óc người thợ thủ công. Đặc biệt, những sản phẩm từ từng
lớp di chỉ thể hiện rất rõ nét đặc trưng nghệ thuật của các triều đại khác nhau
theo thứ tự thời gian: Thời Lý – Trần, Thời Lê – Nguyễn…phản ánh dòng chảy văn
hóa Việt Nam một cách sinh động, cụ thể. Ông cha ta đã để
lại một kho tang nghề truyền thống quý giá, nay vẫn tồn tại và phát triển trong
cuộc sống hiện đại, vừa phục vụ nhu cầu tiêu dung trong nước vùa xuất khẩu như:
Mây, Tre đan, gốm sứ, đồ gỗ, dệt thổ cẩm, thêu ren, sơn mài, đúc đồng, chạm
khắc đá, kim khí, hoa cây cảnh…
Hiện nay cả nước có
trên dưới 3.355làng nghề và làng có nghề trong đó trên 400 làng nghề truyền
thống với 53 nhóm nghề. Việt Nam ước tính co khoảng 200 loại sản phẩm thủ công
khác nhau trong đó rất nhiều sản phẩm có lịch sử phát triển hàng trăm, hàng
nghìn năm: Tơ lụa Vạn Phúc, The La khê, Đồng Ngũ Xã, gỗ Sơn Đồng, Thêu Quất
Động có hàng nghìn năm lịch sử, Làng đúc Phước Kiều, Làng Đệm Bàng Phò Trạch,
Mây Tre đan Phú Vinh, Gốm Sứ Bát Tràng, Chu Đậu, Thổ Hà, Bầu Trúc, Kim Hoàn
Định Công, Đồng Xâm, Châu Khê, Khảm Chuôn Ngọ, Mộc Kim Bồng, Thổ cẩm Mai Châu,
Dừa Bến Tre, đồ chơi dân gian, nhạc cụ dân tộc…Sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
làng nghề Việt Nam có một sức sống mới, phong phú hơn, được chú ý về cơ sở hạ
tầng, công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu phát triển du lịch làng nghề,
quảng bá thương hiệu sản phẩm cải tiến mẫu mã…Tại các làng nghề ra đời nhiều
công ty mới, đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm
trên thị trường quốc tế. Thị trường trong nước cũng có điều kiện phát triển như
mặt hàng nội, ngoại thất, sản phẩm văn hóa tâm linh…Sự phát triển ấy không bảo
lưu cái cũ mà bắt gặp sự giao thoa với thế giới. Đời sống của người dân ở nơi
có làng nghề thường cao hơn từ 3 – 5 lần. các làng nghề thu hút khoảng 12 triệu
lao động, ngoài ra còn tạo việc làm cho hàng triệu lao động phụ lúc nông nhàn.
Những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu đã lên tới hơn 1 tỷ triệu USD/năm.
Tuy nhiên, khoảng từ
cuối năm 2008 đến nay trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, các làng
nghề Việt Nam cũng lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn, thiếu vốn. Khi doanh
nghiệp làng nghề thu hẹp sản xuất, không những người lao động trực tiếp chịu
tác động mà nó sẽ ảnh hưởng dây chuyền tới nhiều lao động ở các lĩnh vực khác.
Thực trạng đó đòi hỏi những bioeenj pháp giải cứu cho làng nghề trước hết là
tháo gỡ khó khăn về kinh tế, giải cứu công ăn việc làm cho hàng triệu lao động
nhất là nhiều người là việc ở thành phố, khu công nghiệp trở về làng chưa có
công ăn việc làm. Cùng với sự trợ giúp của Chính Phủ, một số doanh nghiệp làng
nghề đã chủ động thực hiện các biện pháp tổ chức lại sản xuất, kinh doanh, kiếm
thêm bạn hàng để vươn lên. Hiệp hội làng nghề cũng đã có nhiều hoạt động tích
cực trợ giúp doanh nghiệp làng nghề. Tuy vây, các làng nghề đang trông đợi vào
sự quan tâm của Nhà nước. Để giải quyết hàng loạt vấn đề về vốn, phát triển các
vùng nguyên liệu, cải tiến mẫu mã sản phẩm hiện đại hóa công nghệ truyền thống,
đào tạo truyền dậy nghề, tham dự các cuộc hội chợ triển lãm trong nước và quốc
tế, xúc tiến thương mại mở rộng thị trường xuất khẩu, tập trung khai thác tốt
thị trường trong nước thì các cơ sở, hộ sản xuất nhỏ lẻ “lực bất tong tâm”. Cần
hình thành ngay ban chỉ đạo Nhà nước về tư vấn phát triển bền vững các làng nghề, hình thành Quỹ hỗ trợ
bảo tồn, phát triển các làng nghề theo hướng mỗi làng một nghề; tiến hành quy
hoạch các làng nghề theo nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu tránh
tình trạng mạnh ai nấy làm xảy ra ứ đọng sản phẩm…Hà Nội có số lượng làng nghề
nhiều nhất nước, trong dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội đã đưa hoạt
động của làng nghề vào chương trình kỉ niệm, là cơ hội để các làng nghề vượt
qua khó khăn vươn lên. Thể hiện sức sống trường tồn nghề thủ công truyền thống từ
các làng nghề, phố nghề, nghệ nhân đã vượt qua khó khăn về vốn, thị trường,
công nghệ truyền thống lâu đời kết hợp với công nghệ hiện đại.v.v…các làng nghề
, nghệ nhân đã tham gia trưng bày triển lãm, lễ hội tham gia chương trình
“Những tấm lòng với Thăng Long – Hà Nôi”, quà tặng cho thủ đô nhân dịp đại lễ
1000 năm như: Tranh thêu “Cội xưa” nói về miền đất lịch sử Cố Đô Hoa Lư – Ninh
Bình của làng nghề truyền thống Văn Lâm, đồng thời cũng là một làng nghề du
lịch truyền thống lâu năm, bức Thiên Đô chiếu qua chất liệu đồng Đại Bái gỗ
Đồng Kỵ Bắc Ninh, sẽ được tổ chức rước trọng thể từ Cố Đô Hoa Lư về Hà Nội
trong ngày Đại lễ 1000 năm. Các làng nghề gốm Bát Tràng, khảm chai Chuôn Ngọ,
thêu Bất Động…cùng thể hiện Chiếu dời Đô bằng các chất liệu truyền thống trong
ngày diễn ra đại lễ khách du lịch trong nước và Quốc tế sẽ được xem triển lãm
quà tặng, quà lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề, nghệ nhân được
trưng bày tại Cung Văn hóa Hữu Nghị Việt
Xô qua các chất liệu như: gốm sứ, trạm thúc đồng, thêu ren, điêu khắc gỗ, sơn
mài, khảm chai, mây tre đan dệt lụa, kim hoàn đá quý v.v…nói lên sức sống làng
nghề và tấm lòng nghệ nhân, người thợ thủ công cả nước với đại lễ ngàn năm
Thăng Long – Hà Nội, nếu chúng ta biết khai thác lợi thế nghề thủ công truyền
thống, các làng nghề Việt Nam vào phát triển tiềm năng du lịch. Ngoài sản vật
và các sản vật thủ công, các lễ hội làng nghề, các trò chơi dân gian, văn hóa
ẩm thực từ các làng nghề sẽ tạo nên một bức tranh phong phú và đa dạng.
Về phát triển du lịch làng nghề truyền thống
hiện nay. Trong xu thế hội nhập quốc tế, làng nghề, ngành nghề truyền thống và
các làng Việt cổ Việt Nam là nơi hội tụ đầy bản sắc, nét độc đáo riêng, góp
phần giới thiệu sinh động về đất nước và con người của mỗi vùng miền, địa
phương, phát triển du lịch làng nghề phù hợp với phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội đang được nhiều quốc gia quan tâm và đưa ra những chính sách quảng bá để
kích thích phát triển loại hình du lịch làng nghề.
Việt Nam là
một Quốc gia có hệ thống các làng nghề truyền thống đa dạng và phong phú kết
hợp cảnh quan thiên nhiên, kiến trúc độc đáo phù hợp cho loại hình này. Làng nghề
truyền thống Việt Nam chính
là sự gắn bó tồn tại và phát triển cùng với sự thăng trầm của lịch sử dân tộc,
nó mang đậm dấu ấn tinh hoa văn hóa Việt Nam. Sản phẩm làng nghề vừa độc
đáo, mang đậm dấu ấn và tình cảm của người Việt và của từng dân tộc trong đại
gia đình 54 dân tộc anh em hợp thành. Các sản phẩm làng nghề là đối tượng tài
nguyên du lịch có giá trị về kinh tế, văn hóa, vui chơi giải trí và hàng lưu
niệm cho khách du lịch chính là sản phẩm TCMN.Ước tính hiên nay cả nước có
khoảng hơn 20chuyến du lịch từ Bắc vào Nam, trong đó 35% là du lịch làng
nghề hoặc du lịch gắn với làng nghề theo
tuyến đã định của ngành du lịch.
Nên có nhận thức đúng đắn vá đầy đủ về loại
hình du lịch làng nghề. Nó là một trong những loại hình tài nguyên quan trọng
của nước ta hiện nay, những lợi ích lớn của phát triển làng nghề du lịch về
kinh tế, giải quyết hàng triệu lao động ở các địa phương, ở mọi lứa tuổi và
hoàn cảnh ít nhiều có nguồn thu nhập chính đáng, hạn chế rất lớn về mặt tiêu
cực và tệ nạn xã hội làng nghề du lịch góp phần quan trọng về mặt giữ gìn bảo tồn những giá trị văn hóa của
dân tộc.
Tuy nhiên, để phát
triển xứng tầm loại hình làng nghề du lịch còn rất nhiều việc phải làm như;
Nhận thức, ý thức trách nhiệm của cấp chính quyền, sự đồng thuận của nhân dân
địa phương trong xây dựng cơ sở hạ tầng, cảnh quan, môi trường, các chương
trình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chất lượng cao. Đồng thời phải tạo những
điều kiện cơ sở dịch vụ phục vụ khách thuận lựoi hấp dẫn để khách đến ngày một
đông, đến nhiều lươt mua nhiều hàng lưu niệm, có ấn tượng tốt đẹp.
Trong cuốn sách “làng
nghề du lịch Việt nam” do Nhà xuất bản Thống kê – Hà Nội năm 2007 đã nêu những
điều kiện để trở thành một làng nghề du lịch:
Thứ nhất: là các giá trị văn hóa làng nghề
thể hiện thông qua tính truyền thống của công nghệ và kỹ thuật sản xuất, đó là
kết quả của một quá trình kết tinh, truyền tải và tiếp nối từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Đặc thù sản phẩm của làng nghề phụ không thuộc vào dây truyền sản
xuất hiện đại, năng suất cao mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, bí quyết tài hoa
người thợ chế tác đồ thủ công. Sản phẩm sản xuất từng chiếc, từng chiếc, do đó
huy động dấu ấn tình cảm và cá nhân người thợ. Trong xu thế quốc tế hóa mọi mặt
của đời sống giá trị văn hóa truyền thống có sức hút đặc biệt đối với cá giá
trị văn hóa truyền thống, tìm hiểu nhân sinh quan, thế giới quan và quan niệm
của người Việt Nam.
Thứ hai: là các giá trị lịch sử các làng
nghề phải có tuổi nghề khá cao, sản phẩm thường gắn với đời sống vật chất và
tinh thần của cộng đồng, lưu giữ cả những yếu tố tín ngưỡng, phong tục tập quán
của các làng nghề. Bởi vậy các làng nghề du lịch thường phải gắn với lễ hội
truyền thống, gắn với cảnh quan thiên nhiên truyền thống của làng quê Việt nam
như: bến nước, dòng sông, đình làng,…
Thứ ba: là mức độ tham gia của cộng đồng.
Động cơ của khách du lịch khi lựa chọn đến các làng nghề là được tận mắt quan
sát quá trình sản xuất và mua sắm sản phẩm thủ công, ngoài ra họ còn muốn tham
gia vào đời sống sinh hoạt thường nhật của làng quê. Quá trình này đòi hỏi mức
độ tham gia của cộng đồng là rất lớn, từ khâu hướng dẫn sản xuất cho thuê cơ sở
lưu trữ tại nhà mời khách các món ăn truyền thống, thuyết minh cho khách về
phong tục tập quán của làng. Bởi vậy, du lịch làng nghề đòi hỏi sự phối hợp
đồng bộ giữa khách du lịch, người dân địa phương, đơn vị kinh doanh du lịch.
Các tiêu chí để xây
dựng và phát triển làng nghề du lịch: Một làng nghề được coi là làng nghề du
lịch hoàn chỉnh…cần đạt được các tiêu chuẩn sau:
1.
Có
sản phẩm thủ công độc đáo, đặc sắc, tinh xảo gắn liền với đội ngũ nghệ nhân.
2.
Có
nơi sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ để biểu diễn quy trình sản xuất để cho
khách du lịch xem.
3.
Có
gian hàng trưng bày và bán sản phẩm làng nghề.
4.
Có
công trình văn hóa lịch sử (cây đa, giếng nước, sân đình)
5.
Có
nhân viên thuyết minh, hướng dẫn khách du lịch có các dịch vụ phục vụ khách du
lịch.
6.
Có
không gian phục vụ ăn uống, đỗ xe tách biệt
7.
Có
cơ sở hạ tầng giao thông thuận lợi, bảng
chỉ dẫn rõ ràng phục vụ khách tham quan.
8.
Môi
trường trong sạch, sản xuất không làm ô nhiễm môi trường.
9.
Thu
nhập về du lịch chiếm ít nhất 25% thu nhập của làng.
Trên đây là những nội dung của nhóm tác giả
biên soạn sách “Làng nghề Du lịch Việt Nam” nên cần được tham khảo.
Hiệp hội Làng nghề
Việt Nam, hoan nghênh hưởng
ứng và sẵn sang đồng thuận góp phần cho chương trình phát triển du lịch các
làng nghề truyền thống Việt Nam.
Hiệp hội làng nghề
Việt Nam ra đời đến nay đã gần 8 năm xây dựng và phát triển, Hiệp hội làng nghề
Việt Nam đã và đang khẳng định mình trong việc gìn giữ, phát triển các làng
nghề, phố nghề. Hiện nay, Hiệp hội có 9 trung tâm, các văn phòng đại diện vùng
miền, 5 CLB, phong tặng 145 nghệ nhân làng nghề thuộc 32 tỉnh thành cả nước, có
một đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia cao cấp đã qua công tác ở các cơ quan
TW, hơn 2000 thành viên và hội viên trên
khắp cả nước. Hiệp hội hiện nay là “địa chỉ đỏ”, nơi quy tụ các làng nghề, gắn
kết họ để vinh danh nghề truyền thống, mang thông điệp nhắc nhở người dân Việt
Nam cùng chung tay gìn giữ, phát triển làng nghề Việt Nam trong tiến trình hội
nhập phát triển văn hóa du lịch của làng nghề truyền thống là đồng hành với
phong trào xây dựng nông thôn mới.”
Lưu Duy Dần
Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam