Hũ gốm thời Lý phủ men kính bị bong tróc, bể vỡ, đang được phun lên lớp men mới tại xưởng phục chế. (Ảnh: Lam Phong)
Trong không gian “bí mật” của căn gác nhỏ ở quận 4 (TP.HCM) bừa bộn
bột màu, máy bơm hơi, bình xịt, keo dán, các loại hóa chất khác nhau như
một phòng thí nghiệm… là những món đồ cổ đủ loại, có món niên đại vài
trăm năm như đồ sứ ký kiểu, đến những dòng gốm niên đại ngàn năm, tất cả
đều bị sứt tai gãy gọng, hoặc có một khiếm khuyết nào đấy. Phần việc
của chủ nhân không gian ấy, ông Đặng Tuấn Viên, là làm sao để các món đồ
đó trở thành liền lạc, đẹp như thuở ban đầu.
Nghề sửa đồ cổ, với dân nghiên cứu, bảo tàng, được gọi bằng tên
chuyên môn là “nghề phục chế”. Còn người sưu tầm, người buôn cổ ngoạn
gọi là “thợ sửa đồ cổ”. Nói các thợvá đồ cổ (gồm nhiều chất liệu từ gốm,
sứ, đá, đồng…) là “toàn năng” cũng không ngoa, bởi cái nghề kỳ lạ này
hội tụ rất nhiều biệt tài kỳ diệu. Họ là nhà hóa học khi sử dụng keo kết
dính, pha trộn các hóa chất tẩy rửa, tạo màu… Họ là nhà điêu khắc khi
lắp ghép, tạo hình lại những mảng miếng đã mất của đồ cổ sao cho giống
với nguyên bản. Họ cũng là họa sĩ khi có thể vẽ lại hoàn hảo các chi
tiết đã mất trên các mảng đã phục chế. Họ còn là sử gia khi nắm bắt được
các minh văn, họa tiết, lối trang trí trên đồ cổ để phục dựng theo
nguyên bản đúng với niên đại. Họ là chuyên gia khảo cổ học vì hiện vật
khi phục chế phải thể hiện được sự tàn phai theo thời gian. Họ là thợ
sửa uy tín khi làm đúng hẹn và dấu sửa bền đẹp theo thời gian để người
xem khi nhìn vào, không phân biệt đâu là đồ sửa, đồ đã qua phục chế.
Trong giới sửa đồ cổ ở Việt Nam có số lượng đếm chưa quá 10 đầu ngón
tay, Đặng Tuấn Viên có biệt tài sửa các dòng đồ cổ đa chất liệu, đặc
biệt là gốm Việt thuộc các dòng Lý – Trần – Lê – Mạc, gốm đất nung.
Hơn 20 năm trước, Viên là chủ tiệm đồ cổ ở 46 Lê Công Kiều, Q.1,
TP.HCM. Viên có phong thái thong dong nhàn du, quần áo chỉn chu, trông
giống một nghệ sĩ ăn vận bảnh bao hơn là một tay buôn tối tắt mặt mũi
với chuyện mua bán cổ vật. Đồ của ông bán cũng thường là những món nhỏ,
tuyển chọn kỹ từ đầu vào, dẫu có sứt mẻ tí nhưng vẫn luôn được giới chơi
đánh giá là đồ đẹp. Gắn bó với nghề cổ vật, tiếp cận nhiều loại hiện
vật, kiến thức am tường trở thành nền tảng để Đặng Tuấn Viên chuyển sang
nghề sửa đồ cổ. Có thể gọi đó là cơ duyên, trong đó có cả sự tiếc rẻ
mỗi khi gặp hiện vật giá trị nhưng không còn toàn vẹn. Ông bắt đầu phục
chế để phục vụ nhu cầu của người sưu tầm, và cũng là để thỏa mãn nhu cầu
bản thân muốn thưởng thức đồ cổ ở góc nhìn toàn vẹn nhất. Trong lĩnh
vực sưu tầm cổ vật giai đoạn 1990 – 2000, cũng xuất hiện nhiều thợ sửa
đồ cổ, nhưng phần lớn các vết sửa – đặc biệt là dòng đồ sứ xanh trắng bị
mất miểng, được thợ sửa đắp cốt, chỉ sau 2 – 3 năm là ngả màu vàng ố,
bong men, trông rất thảm hại. Với Đặng Tuấn Viên, giới sưu tầm nhận định
mỗi khi ông đồng ý phục chế một món cổ vật, vẻ đẹp nguyên bản thường
được trả lại như ban đầu. Ví như cái tô sứ ký kiểu vẽ tích bách Thọ (100
chữ Thọ) hiệu đề “Ngoạn Ngọc” của một nhà sưu tập ở Phú Nhuận do tuột
tay bể nát vụn thành trăm mảnh, đã được ông phục dựng nguyên bản, gõ kêu
boong boong sau hơn tháng ròng ở xưởng. Sau 15 năm, người viết chứng
kiến cái tô vẫn nguyên dạng, không lộ tí dấu vết gì của việc phục chế
ngoại trừ khi soi lên đèn.
Cái đĩa sứ ký kiểu thời Thiệu Trị (thế kỷ 18) vỡ vụn, thạp gốm hoa
nâu thời Trần (thế kỷ 13) toác đi một nửa, cái tô thời Nguyên (thế kỷ
13) chỉ còn lại mỗi phần đáy… khiến vẻ đẹp nguyên bản của hiện vật chỉ
còn lại trong trí tưởng tượng hoặc từ lý thuyết sách vở, và hiển nhiên
giá trị của đồ bể cũng vì đó giảm đi rất nhiều so với giá thực của thị
trường. Để tìm lại đường nét nguyên bản cho hiện vật, từ cốt thai, nét
vẽ, màu men, kiểu dáng, kích thước… thợ sửa đồ sử dụng kỹ thuật tạo
hình, điêu khắc, hội họa, men thuốc, nhiệt độ nung, làm cũ… đưa món đồ
bể vỡ được trở nên ngay lành, toàn vẹn.
Đặng Tuấn Viên với chiếc bình gốm Lý vỡ nát vừa được phục chế hoàn thiện.
Ở Việt Nam, công lao động của thợ sửa đồ cổ lành nghề không tính bằng
ngày, bằng tháng, bằng năm, mà bằng kết quả thực tại. Giá sửa cũng
không có khung nhất định, kêu bao nhiêu trả bấy nhiêu, hình thành một
nghề kỳ lạ, hiếm, quý, phục vụ giới sưu tầm và mua bán trong thị trường
cổ ngoạn. Việc sửa và phục chế hoàn thiện các phần khiếm khuyết chỉ là
một trong những công đoạn cơ bản. Cái khó hơn là khi hiện vật phục chế
hoàn hảo, còn phải được làm cũ cho tương đồng với các phần còn nguyên
vẹn. “Khi ấy phải dùng các kỹ thuật chà nhám, hoặc phun cát, tạo nét lạc
tinh cho phần vừa sửa. Quá trình này tôi có được là nhờ tiếp cận với
nhiều cổ vật mang niên đại khác biệt, gặp gỡ các nhà nghiên cứu, sưu tầm
và trau dồi nghề qua từng hiện vật được mọi người tin tưởng đưa cho
phục chế,” ông Viên cho biết.
Phù hợp với người sưu tầm
Nguyễn Anh Tuấn – giám đốc công ty Tân Di Sản Việt, từng công
tác tại bộ phận trưng bày của Bảo tàng Lịch sử TP.HCM – chia sẻ quan
điểm về sửa đồ cổ: “Theo công tác bảo tàng, một hiện vật khi mất
mảnh, nguyên tắc sửa sẽ phục dựng lại phần đã mất nhưng không vẽ hoa
văn. Dấu sửa để lộ rõ để người xem biết đó là hiện vật phục dựng. Còn
cách sửa vẽ cả hoa văn, trả lại theo nguyên trạng vẻ đẹp ban đầu thường
được người sưu tầm, hoặc buôn bán ưa chuộng vì dễ trưng bày hoặc khi
giao dịch sẽ có giá tốt hơn là đồ bể vỡ”
Ở Việt Nam, thị trường cổ ngoạn có hai dòng đồ cần sửa nhiều là đồ
đào (đào dưới đất lên) thuộc niên đại cách đây cả ngàn năm (thời Lý,
Trần). Dòng hiện vật này (với những đồ lớn như thạp, hũ, chậu) hiếm cái
nào đạt mức độ toàn bích, bởi là cốt gốm xốp, qua thời gian đã mục nát
hết cả. Do vậy để có đồ đẹp, ít nhiều phải qua sửa sang, tút tát, nếu
không can thiệp vào cốt gốm thì cũng phải chấm lại một số chỗ trên lớp
men xưa. Gốm Việt đã qua phục chế rất khó phân biệt bởi cốt gốm không có
độ thấu quang khi soi qua ánh đèn.Do vậy chỉ còn cách nhìn vào lớp men
bề mặt mà đoán biết. Biệt tài của thợ sửa đồ cổ không chỉ đơn thuần là
gắn, vá, đắp… dùng chính miểng vỡ của dòng đồ cùng niên đại, khi gắn
keo, rồi tiếp tục vẽ lên, phủ men, tạo ra các nét vẽ dưới men nên rất
khó để người thường cảm nhận đâu là cũ – mới, thật – giả, kể cả việc
dùng các phương pháp khoa học, bởi cốt gốm cũng là đồ thật, chỉ có lớp
keo dán và men phủ được làm mới. Một dòng đồ khác là đồ sứ. Việc phân
biệt các chi tiết sửa trên đồ sứ dễ hơn gốm, bởi cốt sứ trắng có độ thấu
quang cao, khi đưa ra ánh đèn sẽ nhìn rõ được các dấu mờ, dấu re nứt
(hair line) dù đã được chắp vá, gõ kêu boong boong hoàn hảo chứ không
lạch cạch như lúc re nứt ban đầu.
1. Chiếc tô đời nguyên (1271 – 1368)
bể nát, chỉ còn lại phần trôn bé bằng lòng bàn tay, giá cũng đã trên
chục nghìn đôla. Sau gần nửa năm phục dựng họa tiết hoa lam, phần trôn
được dựng thành cái tô đẹp như nguyên bản, để ra thị trường với giá
28.000 đô la mỹ.
2. Đồ sứ đông thanh thời nguyên với miệng hũ tróc men đã được sửa hoàn thiện.
3. Ấm gốm men ngọc (Celadone) thời Trần (thế kỷ 15) với phần quai được làm mới hoàn toàn và miệng đã qua chỉnh sửa.
Đồ ký kiểu của triều Nguyễn, đến những dòng sứ hiếm trên thị trường
như đồ thời Nguyên (1271 – 1368), khi giá trị của hiện vật tính bằng
centimet vuông, quy ra bạc tỉ, việc sửa lại những chi tiết khiếm khuyết
sẽ “hái ra tiền” cho cả người sửa và người sở hữu. Mới đây, trong một
giao dịch ở trị trường cổ ngoạn Việt, cái tô thời Nguyên đường kính hơn
40cm đã bể nát, chỉ còn lại phần trôn bé bằng lòng bàn tay, giá thị
trường cũng đã trên chục ngàn đô la Mỹ. Sau gần nửa năm biến hóa, phần
trôn được dựng thành cái tô đẹp như nguyên bản, với giá 28 ngàn đô la
Mỹ. Giá sửa món đồ này không được chủ nhân tiết lộ, chỉ được bật mí là
rất đắt nhưng quả thật nhìn vào cái tô đã sửa hoàn thiện, thợ tay ngang
và người sưu tầm khó mà cảm được toàn bộ nét vẽ, hình hài của cái tô
thật mà… giả ấy.
Nhuần nhuyễn
Biệt tài của thợ sửa đồ cổ không chỉ đơn thuần là gắn, vá, đắp… dùng
chính miểng vỡ của dòng đồ cùng niên đại, khi gắn keo, rồi tiếp tục vẽ
lên, phủ men, tạo ra các nét vẽ dưới men nên rất khó để người thường cảm
nhận đâu là cũ – mới, thật – giả, kể cả việc dùng các phương pháp khoa
học, bởi cốt gốm cũng là đồ thật, chỉ có lớp keo dán và men phủ được làm
mới. Người viết từng gặp những hiện vật gốm hoa nâu thời Trần đã qua
phục chế, khi hỏi lại ngay bản thân thợ sửa cũng không nhớ rõ đã sửa chỗ
nào và có bao nhiêu phần trăm sửa, bởi sự tương đồng giữa chỗ sửa và
chỗ nguyên bản quá hoàn chỉnh.
Ông Viên cho biết, món đồ bể vỡ, giá trị mua vào chỉ là rẻ mạt, như
chiếc đĩa gốm Chu Đậu ở thế kỷ 15, chỉ vài trăm ngàn. Nếu sửa hoàn thiện
thật khó tính thời gian, có khi hàng tuần, có khi cả tháng mới sửa
xong. “Tính tiền mà quy ra công thì không tính được vì biết bao nhiêu
tính cho đủ. Tôi theo nghề là phần vì đam mê,” ông nói. Là người thường
hợp tác với giới sưu tầm – những người có đưa hiện vật vào các cuộc
triển lãm nhóm ở bảo tàng – ông Viên không tham gia quá trình phục chế
cho bảo tàng vì “gian nan thủ tục.” Điều độc đáo là nghề sửa đồ cổ phát
triển theo hình thức nghề dạy nghề và uy tín nâng dần theo thời gian.
Chuyện sửa một món đồ cổ đã qua bể vỡ, với những hiện vật bảo tàng,
chuyện phục dựng hình hài, màu men, nét vẽ… sẽ hữu ích, giúp người xem
hình dung trọn vẹn vẻ đẹp hiện vật. Riêng trong giới sưu tầm, có người
thích giữ nguyên hiện trạng món đồ dù bể vỡ, mất miểng, người lại thích
phục chế đắp cốt, vẽ lại men… miễn để món đồ toàn vẹn, thêm đẹp và giá
trị. Còn với giới mua bán cổ vật, việc sửa thành nguyên bản bán có giá
hơn so với đồ bể vỡ. Chưa kể với những tay buôn “đạo đức” kém, chuyện
sửa đồ còn là để gài bẫy những người chơi mới vào nghề. Hiện vật được
bán với giá đồ nguyên nhưng thực chất là đồ bể vỡ.
4. Thạp gốm thời Trần với nhiều chi tiết bị khiếm khuyết đã được đắp cốt mới, liền lạc
với cốt gốm cũ.
5. Độc bình sứ men màu bị vỡ phần miệng đã qua phần dựng cốt và đang được tô men theo nguyên bản.
Sự tài ba đôi khi cũng khiến thợ sửa đồ dễ ôm tai tiếng, bởi phải nằm
giữa lằn ranh thiện – ác mong manh. Chỉ một biệt tài biến hóa nhỏ, từ
cái nậm tì bà trắng trơn, hình con vịt (uyên ương) của dòng gốm hoa lam
Chu Đậu, giá thị trường dăm ba triệu bởi chỉ có cốt mà không có hoa văn,
thợ sửa đồ có thể vẽ lên đó những đường nét hoa lam đẹp như nguyên bản,
có giá trăm triệu đồng là thường tình. Chưa kể những lắp ghép của đáy
bình này với thân bình nọ, cùng quai bình kia, tất cả đều là đồ thật,
nhưng sẽ sản sinh ra một hiện vật độc – lạ. Thế nên không ít những hiện
vật khi được sửa hoàn thiện, từng gây đau đầu với nhà nghiên cứu, sưu
tập bởi kiểu dáng lạ, hoa văn, họa tiết chưa từng thấy bao giờ. Và trong
thế giới cổ ngoạn, cái gì độc, hiếm lạ sẽ dễ bán với giá cao ngất
ngưởng. Thợ sửa đồ nhiều khi chỉ làm theo yêu cầu của khách hàng, nhưng
rất dễ bị quy kết thành lừa đảo hơn là một “bác sĩ thẩm mỹ” thông
thường. Thế nên, dù có lành nghề, vững nghề mấy, giới sửa đồ cổ Việt Nam
thường hoạt động âm thầm và khá kín tiếng.
Theo: forbesvietnam.com.vn