Những ngày cuối cùng của năm 2017, tại gallery
Imperial (8 Hùng Vương, TP. Huế) đã diễn ra một sinh hoạt mỹ thuật đặc
sắc: triển lãm 132 tác phẩm trúc chỉ, thành quả từ hai khóa học và thực
hành ngắn hạn (workshop) được tổ chức trước đó trong khuôn khổ của dự án
“Hành trình trúc chỉ (lần I, tháng 12-2017)”.
Trước đó không
lâu, triển lãm “Trúc chỉ: lời của sông – phiên bản 2017”(*) tổ chức tại
Bảo tàng Mỹ thuật TP. Đà Nẵng đã trở thành một sự kiện văn hóa đáng nhớ ở
thành phố bên sông Hàn.
|
Họa sĩ Phan Hải Bằng
Sinh năm 1971 tại Quảng Bình, họa
sĩ Phan Hải Bằng hiện là giảng viên bộ môn Đồ họa của Trường Đại học
Nghệ thuật Huế và là người khai sáng nghệ thuật trúc chỉ, người điều
hành dự án Nghệ thuật trúc chỉ Việt Nam.
|
Người khai sinh nghệ thuật trúc chỉ là
họa sĩ Phan Hải Bằng của xứ Huế. Đã gần mười năm từ khi anh nhận được
học bổng sang Đại học Mỹ thuật Chiang Mai (Thái Lan) nghiên cứu về kỹ
thuật làm giấy vốn là mối quan tâm, cũng là nỗi trăn trở của anh trước
sự thiếu thốn vật liệu sáng tác đồ họa, bộ môn mà anh đã giảng dạy nhiều
năm tại Trường Đại học Nghệ thuật Huế.
Chính ở đất nước bạn, Phan Hải Bằng đã
tìm được cách tạo tác một loại giấy mới, tựa như cách làm giấy thủ công
cổ truyền ở các làng nghề tại Việt Nam, nhưng bề mặt loại giấy mới này
có thể được chạm nổi nhiều tầng, nhiều lớp bằng kỹ thuật tương tự như kỹ
thuật khắc bằng axit lên kim loại (etching: cho axit ăn mòn bề mặt kim
loại để có được những chi tiết mà họa sĩ muốn chạm khắc) và kỹ thuật in
lụa hay in lưới (silk screen) của đồ họa.
Trở về nước, Phan Hải Bằng lại tiếp tục
đến Bắc Ninh nhiều ngày để nghiên cứu về nghề làm giấy dó cũng như
nguyên liệu chế tác loại giấy được dùng để vẽ tranh này. Và anh nhận
biết được chính cây tre là loại nguyên liệu thích hợp nhất, dễ tìm nhất
để làm loại giấy mới của anh. Nếu tờ giấy dó là thành phẩm cuối cùng của
quy trình làm giấy truyền thống tại Bắc Ninh và các làng nghề làm giấy
khác tại Bắc bộ, thì với Hải Bằng tờ giấy chỉ mới là khâu đầu tiên của
sáng tạo nghệ thuật, là cái nền để người nghệ sĩ thực hiện tác phẩm hoàn
toàn bằng… giấy, không cần sử dụng bất kỳ vật liệu, dụng cụ hội họa nào
khác như màu, cọ…, cũng không cần đến các kỹ thuật in lên giấy.
Có thể tóm tắt cách thực hiện một tác
phẩm trúc chỉ như sau: bột giấy (được làm từ tre hay có thể bất kỳ
nguyên liệu nào khác: rơm, bã mía, lá chuối, dâu, bèo, cỏ…) thả vào bể
chứa nước, sau đó được “xeo” lên khung thành tờ giấy, chính lúc đó người
nghệ sĩ sẽ can thiệp vào bề mặt giấy còn ướt bằng một vòi phun nước,
lực tác động của nước có thể trở thành “cọ” nhằm tạo những sắc độ, những
tầng lớp khác nhau trên bề mặt giấy.
Và để tạo hoa văn, hình ảnh, người nghệ
sĩ đặt những hình đã cắt, trổ lên bề mặt giấy ướt, tiếp tục phun nước để
tạo ăn mòn như khắc axit trên mặt kim loại. Tất nhiên công đoạn tạo
hình này hết sức công phu, đồng thời đòi hỏi trình độ tay nghề của người
nghệ sĩ. Khi tờ giấy khô, được gỡ khỏi khung thì tác phẩm trúc chỉ đã
hoàn thành.
Một tác phẩm trúc chỉ trong triển lãm “Trúc chỉ: lời của sông” tại Bảo tàng Mỹ thuật Đà Nẵng.
Bộ tranh trúc chỉ được trang trí tại một ngôi chùa miền Bắc
Tại sao lại gọi sáng tạo trên giấy này
là “trúc chỉ”? Tên gọi “trúc chỉ” được nhà văn – dịch giả Bửu Ý định
danh vào tháng 4-2012, hàm ý thông qua tinh thần của cây tre để đề cao
giá trị Việt. Với ý nghĩa đó, trúc chỉ được hiểu là một loại hình nghệ
thuật – giấy của người Việt, do người Việt tạo ra.
Cũng từ đó, đã hình thành một thuật ngữ
mới “đồ họa trúc chỉ/ trucchigraphy” đã được công nhận và sử dụng bởi
giới chuyên môn trong nước cũng như đồng nghiệp ở các nước khác, đồng
thời lĩnh vực đồ họa tại Việt Nam có thêm một loại hình mới. Nói cách
khác, nghệ thuật trúc chỉ đã có đóng góp đáng kể vào nghệ thuật tạo
hình, nghệ thuật thị giác Việt Nam đương đại. Công lao đó trước tiên
thuộc về họa sĩ Phan Hải Bằng và các cộng sự của anh, những người đã
không chỉ nuôi dưỡng một giấc mơ mà còn hiện thực hóa giấc mơ đó vào đời
sống.
Kỹ thuật đồ họa trúc chỉ còn được ứng
dụng để làm mới, nâng tầm các sản phẩm thủ công vốn đã có từ lâu nay,
chẳng hạn như với chiếc nón bài thơ của xứ Huế. Thay vì là những tàu lá
buông hiền lành được trổ những hình ảnh, hoa văn cũ kỹ, chiếc nón được
chế tác bằng trúc chỉ đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật.
Tiếp đó là những cây đèn ngủ, cây quạt
tay, chiếc dù che nắng… rồi hộp đựng đồ trang điểm, xách tay và ví dành
cho phụ nữ và nhiều đồ dùng thân thuộc hằng ngày của người Việt. Để
trang trí nội thất gia đình, có một bộ sưu tập các tác phẩm dành cho
phòng thờ, phòng thiền, phòng thư giãn, phòng khách, phòng làm việc, hay
một bộ đèn trang trí trúc chỉ cho các không gian chức năng của ngôi nhà
Việt…
Khi Nhật hoàng sang thăm Việt Nam và
tham quan xứ Huế vào tháng 3.2017, Ủy ban Nhân dân TP. Huế đã đặt một
tác phẩm trúc chỉ làm quà tặng cho vị khách quý. Tập đoàn Viettel cũng
đã chọn trúc chỉ để làm quà tặng cho khách hàng nước ngoài. Gần đây, một
ngôi chùa ở miền Bắc đã trang trí bằng các tác phẩm trúc chỉ với các
hình ảnh đậm chất thiền…
Dù vậy, trúc chỉ cả về mặt tác phẩm nghệ
thuật cũng như sản phẩm thủ công mỹ nghệ chưa có được sự tôn vinh đúng
mức. Ngay cả tại Huế vẫn có rất nhiều người chưa biết đến những nỗ lực
không mệt mỏi của họa sĩ Phan Hải Bằng và đội ngũ cộng sự trẻ tuổi của
anh. Chính vì vậy, “Hành trình trúc chỉ (lần 1)” mới đây tại Huế là cách
để trúc chỉ đến gần hơn nữa với giới sáng tác mỹ thuật Huế và công
chúng rộng rãi.
Đây cũng là dịp công bố một tác phẩm
trúc chỉ giành được giải thưởng Thiết kế đồ họa Hoa Kỳ (GDUSA) 2017 mà
tác giả là Đặng Thị Bích Ngọc, cựu sinh viên khoa Thiết kế đồ họa, Đại
học Kiến trúc Đà Nẵng. Tác phẩm đoạt giải là cụm poster tuồng San hậu, được thể hiện bằng nghệ thuật trúc chỉ. Cần nói thêm: GDUSA là giải thưởng của tạp chí Graphic Design USA dành cho cộng đồng sáng tạo chuyên nghiệp, có uy tín trong giới chuyên môn.
Bộ poster San hậu đoạt giải thưởng GDUSA 2017
_________________
(*) Phiên bản mới của
triển lãm “Trúc chỉ – Lời của sông” năm 2016 tại Viện Goethe, Hà Nội.
“Lời của sông” lấy cảm hứng từ câu “Không ai tắm hai lần trên một dòng
sông” của nhà triết học cổ đại Hy Lạp Heraclitus, qua đó thể hiện đời
sống và sự sáng tạo luôn vận động, trôi chảy không ngừng nghỉ – một tiếp
biến tất yếu. Trúc chỉ cũng vậy: một sự nối tiếp truyền thống xưa cũ để
hình thành những sáng tạo mới, hiện đại.
Theo: nguoidothi.net.vn