Sử dụng nguồn lớn gỗ nhập
khẩu để sản xuất, phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu, song nguồn
nguyên liệu thiếu minh bạch đã và đang là cản trở không nhỏ của các làng
nghề gỗ trong quá trình hội nhập.
Phần lớn các hộ tại làng nghề gỗ chưa đăng ký kinh doanh. Ảnh: Internet
Rủi ro cao về pháp lý
Theo Tổ chức Forest Trends, Việt Nam có khoảng trên 300 làng nghề gỗ
đang hoạt động với hàng chục nghìn hộ gia đình và hàng trăm nghìn lao
động, bao gồm các lao động trực tiếp từ các hộ và lao động thuê từ bên
ngoài. Tại vùng đồng bằng sông Hồng có 5 làng nghề gỗ lớn là Đồng Kỵ, La
Xuyên, Vạn Điểm, Hữu Bằng và Liên Hà.
Các làng nghề gỗ này điển hình cho các làng có sử dụng nguồn nguyên liệu
gỗ quý nhập khẩu, có rủi ro cao về tính pháp lý để sản xuất đồ gỗ có
giá trị cao, phục vụ nhóm khách hàng khá giả tại thị trường nội địa (La
Xuyên, Vạn Điểm, Đồng Kỵ) và xuất khẩu (Đồng Kỵ).
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, những năm vừa qua đã có những tín
hiệu rõ ràng thể hiện sự dịch chuyển trong việc sử dụng nguồn gỗ nguyên
liệu trong các làng nghề gỗ theo hướng thân thiện về môi trường. Tuy
nhiên, bên cạnh những dịch chuyển tích cực là những rủi ro và khó khăn
to lớn mà các hộ trong làng nghề đang phải đối mặt.
Điển hình là việc giao dịch giữa các hộ trong làng, bao gồm giao dịch
giữa hộ kinh doanh gỗ nguyên liệu và hộ sản xuất chế biến đồ gỗ, giữa
các hộ sản xuất và người mua đồ gỗ sau chế biến là các giao dịch miệng
và hầu như không có bất cứ bằng chứng pháp lý nào minh chứng cho tính
hợp pháp của gỗ và sản phẩm sau chế biến.
Phát biểu tại buổi hội thảo "Làng nghề gỗ trong bối cảnh hội nhập: Thực trạng và lựa chọn về chính sách để phát triển bền vững" do Hiệp
hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam phối hợp cùng Tổ chức Forest Trends tổ chức
sáng ngày 19/1, tại Hà Nội, ông Đặng Việt Quang, chuyên gia nghiên cứu
của Tổ chức Forest Trends đánh giá: Hạn chế về hiểu biết và mối quan tâm
của hộ tại các làng nghề hiện nay một phần là do các cơ chế thực thi
luật pháp cấp địa phương, đặc biệt là cấp xã và huyện còn thiếu và yếu.
Đến nay, các tương tác giữa các hộ và các cơ quan quản lý rất hạn chế.
Các tương tác chủ yếu tập trung vào các nhóm đối tượng là các hộ kinh
doanh gỗ nguyên liệu và các doanh nghiệp, là các chủ thể có quy mô sản
xuất kinh doanh lớn hơn nhiều so với quy mô của các hộ. Hoạt động sản
xuất kinh doanh của các hộ chưa nhận được mối quan tâm của các cơ quan
quản lý, bởi quy mô nhỏ lẻ và không có vai trò trong tạo nguồn thu cho
ngân sách.
Cần hỗ trợ chuyển đổi làng nghề
EU là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng của ngành gỗ Việt
Nam. Hiệp định Đối tác Tự nguyện về Chương trình hành động Thực thi lâm
luật, Quản trị rừng và Thương mại (VPA/FLEGT) được Chính phủ Việt Nam và
EU cơ bản thống nhất vào tháng 5/2017 có mục tiêu loại bỏ gỗ bất hợp
pháp ra khỏi chuỗi cung. Hiệp định đưa ra các quy định cụ thể về tính
hợp pháp của các sản phẩm gỗ, bao gồm cả các sản phẩm được sản xuất ra
bởi các hộ thuộc làng nghề.
Xung quanh câu chuyện phát triển của các
làng nghề gỗ, ông Nguyễn Văn Hà, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp
(Bộ NN&PTNT) cho biết: Xu thế chung của toàn thế giới là sản phẩm
phải truy xuất được nguồn gốc.
Trong quá trình đàm phán Hiệp định VPA/FLEGT, quan điểm là luôn đặt lợi
ích của doanh nghiệp, hộ gia đình và những người sản xuất lâm nghiệp lên
hàng đầu khi thực hiện các cam kết với EU. Theo khảo sát của Forest
Trends tại 5 làng nghề gỗ nêu trên, làng nghề gỗ hiện nay có tới 74,5%
hộ chưa đăng ký kinh doanh. Theo Hiệp định VAP/FLEGT, sau này, quá trình
kiểm soát nguồn gốc gố sẽ hướng vào kiểm soát theo đối tượng kinh
doanh, chế biến, vận chuyển, bán sản phẩm…
Ở hình thức doanh nghiệp, nếu tuân thủ đúng pháp luật, quá trình làm các
thủ tục xin cấp phép FLEGT khá đơn giản, còn doanh nghiệp không tuân
thủ sẽ bị kiểm soát nghiêm ngặt. Với các hộ gia đình ở làng nghề, chưa
hình thành doanh nghiệp, việc kiểm soát cũng sẽ phải gắt gao, làm sao để
có nguồn gốc gỗ hợp pháp. Làm được như vậy, sản phẩm mới có thể được
tiêu thụ trên thị trường nội địa lẫn xuất khẩu.
“Thời gian tới, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, tuyên truyền, tập
huấn để các hộ gia đình trong làng nghề có thể tiếp cận được, làm hồ sơ
xin cấp giấy phép FLEGT suôn sẻ. Dự kiến, phải đến năm 2020-2021 mới áp
dụng triển khai cấp phép FLEGT, song cần chuẩn bị cho tương lai”, ông Hà
nhấn mạnh.
Xung quanh câu chuyện này, đại diện Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam nêu
quan điểm: Để gia tăng sức cạnh tranh cho làng nghề gỗ trong hội nhập,
đặc biệt là đáp ứng tốt vấn đề nguồn gốc gỗ hợp pháp, cần các biện pháp
khuyến khích, hỗ trợ nhằm tạo động lực cho các hộ tự nguyện tham gia
chuyển đổi sang hình thức hoạt động chính thức (có đăng ký kinh
doanh-PV). Quá trình chuyển đổi này đòi hỏi sự giúp đỡ từ các tổ chức
phát triển, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp, đặc
biệt là nỗ lực của chính bản thân các hộ trong làng nghề...
Theo: baohaiquan.vn