Nghề
làm bánh gio có từ lâu đời ở vùng đảo Hà Nam, thị xã Quảng Yên, tỉnh
Quảng Ninh. Nhân dân vùng đảo có phong tục vào dịp Tết Nguyên đán, lễ
Chạp tổ và lễ ra cỗ họ ở các từ đường, mọi gia đình vùng tứ xã đều tự
làm bánh gio để cúng tổ tiên và thưởng thức. Nghề làm bánh gio ra đời từ
đó và ngày nay đang đem lại nguồn thu nhập cao cho người dân địa
phương.
Bánh gio hay còn được gọi là bánh tro, là
món quà quê dân dã, mộc mạc, dung dị và rất đỗi thân quen. Là một loại
bánh truyền thống làm từ những sản vật nông nghiệp, có từ lâu của nhân
dân nơi đây. Ngày nay, rất ít người còn lưu giữ nghề làm bánh gio truyền
thống này.
Chúng tôi tới thăm gia đình anh Bùi Văn
Vần, khu 6, phường Phong Cốc, thị xã Quảng Yên vào một dịp cuối tháng 8.
Gia đình anh Vần có nhiều đời làm bánh gio truyền thống ở đảo Hà Nam,
Quảng Yên. Bánh gio là món quà quê dân dã mà bất cứ người con vùng Quảng
Yên đi đâu cũng nhớ. Nhớ, không chỉ bởi vị ngon đậm đà của bánh, mà còn
bởi nó chứa đựng hương vị của quê hương.
Anh Vần cho biết: “Ngày trước, bánh gio
thường được làm vào mỗi dịp lễ, Tết để bán hay cúng tổ tiên. Nhưng do
yêu cầu của thị trường, bây giờ, bánh gio được làm quanh năm. Để làm
được bánh gio ngon, hấp dẫn thì người làm bánh phải có tâm, yêu nghề và
phải tỉ mỉ thì mới làm ra chiếc bánh đảm bảo yêu cầu”.
Làm bánh gio phải trải qua nhiều công
đoạn tỉ mỉ từ khâu chọn nguyên liệu đến cách làm. Để làm được một mẻ
bánh gio thường phải mất cả ngày với nhiều công đoạn từ chế nước tro,
ngâm rửa lá dong, ngâm gạo đến gói bánh và luộc bánh. Nguyên liệu chính
là gạo nếp. Gạo để làm bánh phải là loại nếp cái hoa vàng, hay nếp nhung
của vụ mùa mới, nhặt hết những hạt tẻ lẫn vào, vo gạo bằng nước thật
sạch, để ráo. Gạo nếp sẽ được ngâm kỹ với nước tro.
Lá dùng để lấy tro cũng khác nhau, ở Đắc
Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội, nước ngâm gạo được người làm lấy từ tro của
cây dền gai, rơm nếp, vỏ bưởi; ở Phú Yên là tro của cây tầm gửi, bưởi,
cây vừng; còn ở Yên Lãng, Thanh Hóa là tro của rơm nếp, bẹ cau nếp, quả
vừng và măng tre; Phú Thọ là lá gai lễ ốc, lá tầm gửi, thân lá cây vừng
khô hoặc hạt xoan chín cùng rơm nếp... Nhưng riêng ở vùng đảo Hà Nam,
Quảng Yên, Quảng Ninh, người dân dùng cây giá (chỉ có ở vùng cửa sông
Bạch Đằng) đốt rồi lấy tro ngâm với gạo để làm bánh.
Thứ tro này được rây mịn, đem hòa với
nước vôi trong theo một tỷ lệ nhất định. Sau đó, cho gạo vào nước này
ngâm một đêm. Nếu ngâm gạo quá lâu, bánh sẽ bị nồng. Ngâm khi nào dùng 2
đầu ngón tay để di hạt gạo thấy vỡ vụn là được. Khi vớt gạo gói bánh
cần phải xả với nước thật sạch, xóc với một chút muối, để ráo. Đây là
công đoạn cốt yếu để tạo nên màu nâu vàng hổ phách, phảng phất hương
vôi, ngọt thơm mát, nuột nà hương vị thanh mát đặc trưng của bánh.
Bánh gio ngon nhất là khi được gói bằng
lá ỏng hay lá dong hoặc lá chuối. Gia đình anh Vần thường chọn lá dong
và lá chuối để gói bánh gio. Lá dong được chọn là những lá tươi xanh, to
bản và lành lặn, rửa sạch luộc kĩ nhiều lần cho phai bớt mùi hăng rồi
lau thật khô trước khi gói. Gạo để vào lòng chiếc lá phải gọn, đều, rồi
quấn lá và bẻ mép ở hai đầu bánh cho thật khít, cân đối để chiếc bánh
chín bóc ra nhìn nuột nà, “ngon mắt”.
Người ta có thể gói bánh dài hoặc bánh
ngắn. Người dân vùng đảo Hà Nam thường gói bánh dài. Dây buộc bánh cũng
không được quá chặt để khi đem luộc, hạt gạo nếp có thể nở và chín đều.
Anh Vần chia sẻ thêm: “Khi luộc bánh gio nên cho thêm một vài lát măng
khô, để làm tăng vị bánh và làm cho màu bánh được vàng óng, thơm hơn”.
Bánh gio luộc chín, bóc từng lớp vỏ ngoài
thấy hiện lên một màu vàng nâu, trong như hổ phách, chưa cần thưởng
thức cũng đã quyến rũ người ăn. Bánh gio thường được chấm với nước mật
hoặc với đường. Cắn một miếng thấy được vị thanh mát, dẻo thơm của hạt
gạo quyện lẫn với vị ngọt của đường, cảm nhận được sự tài hoa, khéo léo
của những người thợ làm bánh.
Ở nhiều nơi, bánh gio chỉ được làm vào
dịp Tết Đoan Ngọ (mùng 5 - 5 Âm lịch) hay Tết Nguyên đán, nhưng với
người dân vùng đảo Hà Nam, Quảng Yên, bánh được làm hàng ngày để bán tại
chợ Cốc, chợ Đình... hoặc các chợ Hạ Long, Cẩm Phả, Thủy Nguyên (Hải
Phòng).
Làm bánh gio không tốn nhiều nhân lực như
những nghề khác, thường chỉ 1 - 2 người. Hiện nay, ở làng đảo Hà Nam có
khoảng 10 hộ nằm rải rác ở các xã Cẩm La, phường Phong Hải, phường
Phong Cốc... còn giữ được nghề. Chị Nguyễn Thị Yến, người làm bánh gio
truyền thống ở Phong Hải cho biết: “Vì là nghề của cha ông để lại, nên
chúng tôi ý thức được việc gìn giữ, bám lấy nghề để sinh sống”.
Theo: bienphong.com.vn