Vang danh khắp cả nước
Theo nhiều tài
liệu, nghề rèn ở Ða Sĩ có từ thời Hùng Vương thứ 18. Thuở đó, người dân
trong làng đã làm ra các vũ khí như giáo mác, gậy sắt, đao, kiếm và
các nông cụ như cuốc, xẻng, dao, liềm… ở dạng thô sơ. Ðến thời nhà
Trần, khi hai cụ Nguyễn Thuật và Nguyễn Thuần từ Thanh Hóa ra truyền
dạy bí quyết cho người dân, Ða Sĩ mới chính thức trở thành làng rèn
chuyên nghiệp.
Mặt hàng chính
được sản xuất trong làng hiện nay là dao, kéo các loại. Những sản phẩm
này luôn được thị trường trong nước ưa chuộng, gần đây lại được người
tiêu dùng các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia biết đến
và tin dùng. Thậm chí còn có những đơn hàng đến từ châu Âu, dù số
lượng chưa nhiều và các hợp đồng không được thường xuyên. Khi cầm trên
tay những con dao, cái kéo đủ kích cỡ, chủng loại dành riêng cho từng
mục đích sử dụng, ít người biết được rằng chỉ với nguyên liệu phổ biến
là thép và gỗ (để làm cán), những người thợ rèn Ða Sĩ đã phải thực hiện
nhiều công đoạn gia công, vận dụng sức khỏe, kinh nghiệm và sự khéo
léo để tạo ra được một sản phẩm hoàn hảo. Ðầu tiên là cắt phôi, sau đó
cho lên lò nung với nhiệt độ gần 1.000oC, thời gian nung tùy thuộc vào
từng loại nguyên liệu thép và độ dày mỏng của sản phẩm. Phôi thép nung
đến khi chuyển sang mầu đỏ trắng, hai người thợ sẽ tiến hành rèn, một
người cầm búa nhỏ gõ nhịp dẫn và một người dùng búa to nặng để quai;
việc này phải có sự kết hợp nhịp nhàng, ăn ý, nếu không sẽ hỏng sản
phẩm và gây nguy hiểm cho người khác. Tiếp đó, đến công đoạn gọt bỏ
những phần sắt thừa để tạo thành hình dáng hoàn chỉnh của sản phẩm, rồi
cho vào lò nung lại và “tôi” qua nước muối hoặc dầu hỏa để lấy mầu.
Cầu kỳ nhất là gọt cánh, người thợ phải gọt khéo, đều tay xuôi theo
chiều lưỡi dao nghiêng 45 độ để lưỡi dao hay lưỡi kéo có độ mỏng đều
nhau, tạo được độ sắc. Cuối cùng là các công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ,
như: mài nước, gạt mầu, đánh phớt bóng, tra cán... thường được phụ nữ,
người cao tuổi và các em nhỏ đảm nhận. Nhìn vào toàn bộ quá trình làm
ra một sản phẩm, có thể thấy gần như tất cả “nhân lực” trong gia đình
đều được huy động và phân công rất phù hợp với sức khỏe, tuổi tác. Có
lẽ vì vậy mà người dân Ða Sĩ gắn bó với nghề rèn ngay từ khi còn nhỏ
đến tận lúc không còn đủ sức làm việc. “Nghề rèn không cao sang nhưng
đem đến cho người dân cuộc sống ổn định, no đủ; đổi lại là sự vất vả,
cực nhọc” - nghệ nhân Hoàng Văn Chinh nói.
Từng có một thời
gian làng rèn thưa vắng ánh lửa của bễ lò, tiếng búa tôi thép. Ông
Ðinh Công Ðoán, Phó Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Ða Sĩ nhớ mãi khoảng
trước năm 2000, bắt đầu có máy móc nông nghiệp thay thế sức lao động
của con người, cho nên nhiều loại nông cụ như liềm, cuốc, lưỡi hái,
lưỡi cày, răng bừa... khó tiêu thụ; nhiều lò rèn ở Ða Sĩ phải đóng cửa,
các nghệ nhân, thợ rèn bỏ làng đi nơi khác kiếm kế sinh nhai. Nghề
truyền thống vang danh khắp nước đứng trước nguy cơ bị mai một, thất
truyền nếu không đổi mới kỹ thuật cũng như tạo ra sự phong phú của sản
phẩm. Nỗi đau đáu gìn giữ và phát triển nghề truyền thống của làng thôi
thúc mỗi người dân. Kết quả là năm 1997, Hiệp hội làng nghề Ða Sĩ được
thành lập và nhanh chóng xúc tiến nhiều hoạt động nhằm khôi phục nghề
rèn, như: tổ chức các lớp truyền nghề, thi thợ giỏi, cử nghệ nhân tham
dự các cuộc thi làng nghề truyền thống trên toàn quốc... Hiệp hội đưa
ra nhiều sáng kiến, hướng dẫn người dân áp dụng khoa học kỹ thuật mới
vào sản xuất, thay thế sức người bằng máy móc ở những công việc nặng
nhọc nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hàng hóa, quảng bá sản phẩm qua
nhiều kênh để mở rộng thị trường...
Người thợ làng Ða Sĩ vẫn miệt mài rèn ra những con dao, cái kéo. Ảnh: CÔNG PHƯƠNG
Cần một môi trường làm nghề tốt
Nếu trước đây
người thợ phải mất rất nhiều công sức, thời gian để làm ra được một sản
phẩm thì từ khi các thiết bị máy móc thay cho bàn tay con người, số
lượng và chất lượng sản phẩm đã được nâng lên nhiều lần. Búa máy,
mô-tơ, máy sạt lưỡi... đã góp phần làm giảm sức người ở nhiều công
đoạn, giúp cho nhiều gia đình ở Ða Sĩ mở rộng quy mô sản xuất. Một
người thợ giỏi nghề phải làm ra được tất cả các loại sản phẩm từ nhỏ
nhất như dao tỉa rau củ, kéo cắt chỉ, nạo mướp… cho đến dao chặt, dao
phay, dao quắm, kéo cắt cây chè... Thế nhưng mỗi gia đình trong làng Ða
Sĩ lại chỉ chuyên về một mặt hàng nào đó, chẳng hạn xưởng Ðoàn Ðoán
làm dao phay, dao thái; xưởng Tưởng làm dao chặt, xưởng Chính làm dao
nhỏ, dao nhọn; nhà ông Lương Khanh chuyên đan kẹp chả; có nhiều gia
đình chỉ chuyên làm cán dao (bằng gỗ hoặc nhựa)...
Khôi phục và
phát triển được nghề rèn, đời sống của người dân Ða Sĩ đang ngày càng
sung túc; trong làng hầu như rất ít nhà cấp bốn, nhiều gia đình đã mạnh
dạn đầu tư cho con cái đi du học ở nước ngoài. Tuy nhiên, sự phát
triển của nghề khoảng chục năm trở lại đây đã trở nên quá tải khi bị bó
hẹp trong ngôi làng cổ. Khắp làng vang tiếng búa, tiếng máy cưa, máy
mài ồn ã từ sáng sớm đến đêm, bụi và khói than phủ mờ không khí, những
dòng nước thải đen sì đọng lại ở cống rãnh... khiến người dân có lúc
phải kêu than về sự “tức thở”. Nếu tính trong một gia đình “cha truyền
con nối” có ít nhất hai người làm nghề, nhân lên với con số hơn 900 hộ
thì hiện nay trong làng ngày nào cũng có đến cả nghìn bếp than rừng rực
cháy đỏ. Một đòi hỏi cấp bách là cần một khu sản xuất riêng cho làng
nghề, tách biệt với khu vực nhà ở và sinh hoạt hằng ngày để bảo đảm an
toàn cho cả con người lẫn môi trường sống. Tất cả những người dân làng
Ða Sĩ đều có chung mong muốn là được quy hoạch mặt bằng để mở rộng sản
xuất, đáp ứng nhu cầu thị trường. Anh Nguyễn Văn Thanh (con trai nghệ
nhân Nguyễn Văn Mộc) có hơn 20 năm trong nghề, chia sẻ: “Nhà tôi làm búa
máy, cần diện tích rộng, nhưng hiện nay chỉ tận dụng được mặt tiền của
ngôi nhà để làm xưởng, không đủ chỗ để thuê thêm thợ về làm. Tôi mong
sớm được thuê chỗ trong điểm công nghiệp làng nghề để yên tâm sản xuất;
người già, trẻ con trong nhà không phải chịu cảnh sống chung với bụi
bặm, ồn ào của máy móc, cái nóng nực của lò than”.
Nhiều người dân
trong làng cho biết, dự án quy hoạch khu công nghiệp làng nghề Ða Sĩ đã
được đề xuất từ năm 2006 và thông qua từ năm 2008, nhưng gần 10 năm
nay vẫn chưa được thực hiện, mặc dù chính các hộ dân đã chủ động hỗ trợ
chính quyền giải tỏa mặt bằng và đồng ý thuê mặt bằng sản xuất theo
quy định. Ðầu tháng 6-2017, sau cuộc họp đầu tiên tại UBND phường Kiến
Hưng, ông Hoàng Quốc Chính - Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Ða Sĩ, cho
biết: “Phòng Kinh tế UBND quận Hà Ðông và UBND phường Kiến Hưng đang
phối hợp Hiệp hội làng nghề tổ chức rà soát lại hồ sơ để giải quyết vấn
đề thuê đất cho các hộ dân làng nghề, cũng như dự án quy hoạch khu sản
xuất tập trung 13,2 ha. Chúng tôi đang bàn thảo kỹ để mở rộng thành
phần người làm nghề trong văn bản, chẳng hạn những hộ cung cấp sắt
thép, than đá, đá mài... cho các lò rèn cũng phải được tính là đang
phục vụ sản xuất, phải được ưu tiên cho thuê mặt bằng để tập kết nguyên
liệu”. Ông Chính cũng không giấu được sự sốt ruột, bởi chính trong gia
đình mình, ông đang phải phân chia giờ làm việc trong ngày với các con
để bảo đảm ai cũng có việc làm và thu nhập.
Bằng lòng yêu nghề và sự cần cù chịu khó, hàng trăm năm qua, người
dân Ða Sĩ đã gìn giữ được truyền thống của làng nghề xưa; cùng với sự
tiến bộ về kỹ thuật và tinh thần học hỏi, cầu thị, từng bước đưa nghề
rèn phát triển mạnh trong thời kỳ hiện đại. Việc cải thiện mặt bằng sản
xuất làng nghề với quy mô lớn, bảo đảm an toàn trong lao động và đời
sống sinh hoạt cho người dân nơi đây là đòi hỏi chính đáng và cấp bách;
để Ða Sĩ tiếp tục được vinh danh làng cổ với nghề truyền thống độc
đáo; trở thành điểm đến của nhiều bạn hàng, du khách trong và ngoài
nước.
Theo: nhandan.com.vn