Cụ Chu Thị Thư vẫn ngày ngày quay tơ với mong ước một ngày làng nghề được khôi phục như thời kỳ phát triển thịnh hành. Ảnh: Thanh Thương/ TTXVN
Nằm
dọc theo bờ sông Ninh Cơ, xã Phương Định, huyện Trực Ninh (tỉnh Nam
Định) được biết đến với làng nghề ươm tơ Cổ Chất nổi tiếng từ lâu đời,
là nơi cung cấp tơ chất lượng cho các làng dệt lụa trong nước.
Tuy nhiên, hiện nay, làng nghề
này đang đứng trước nguy cơ thất truyền do nguồn cung cấp kén chính cho
làng ươm tơ Cổ Chất không còn, nhiều người từng làm nghề và lớp trẻ
trong làng cũng không còn mặn mà với nghề.
Trước đây, về Cổ Chất
vào vụ ươm tơ, những cuộn tơ vàng, tơ trắng óng ánh được phơi khắp đường
thôn, ngõ xóm. Nhà nào cũng có ít nhất một guồng tơ, có nhà nhiều tới
ba bốn guồng. Trong thôn nhộn nhịp tiếng máy xe tơ, không khí lao động
tấp nập, rộn ràng.
Theo những người cao niên trong làng, nghề
trồng dâu, nuôi tằm ở đây đã được truyền từ đời này sang đời khác. Từ
lâu, người dân nơi đây đã biết dùng tơ tằm đan lưới đánh bắt cá, sau này
phát triển thành nghề ươm tơ, dệt vải.
Làng nghề ươm tơ Cổ Chất được người dân khắp vùng biết đến bởi sợi tơ thanh mảnh, màu sắc tươi sáng, bền đẹp…
Ông
Phạm Văn Đồng, người đang phát triển nghề ươm tơ từ bao đời của gia
đình chia sẻ, kỹ thuật ươm tơ chính là điều tạo nên sự khác biệt giữa tơ
của làng Cổ Chất với sản phẩm tơ ở những nơi khác.
Khi có kén
tằm, người dân phân loại rất nhanh, đảm bảo loại bỏ sạch chất bẩn trên
kén, chọn ra những kén đủ tiêu chuẩn trước khi ngài cắn kén chui ra làm
hỏng tơ, không kéo được sợi.
Người dân làng Cổ Chất có thể ươm
được những sợi tơ các loại, có những sợi nhỏ như sợi chỉ mảnh nhưng vẫn
đảm bảo đồng nhất về kích cỡ, bền dai, đẹp màu…
Vụ ươm tơ bắt đầu
từ tháng ba đến tháng chín âm lịch hàng năm. Người dân lấy kén ở các
làng lân cận về ươm. Kén được cho vào nước nóng để dễ dàng tách ra và
kéo thành sợi cuộn vào các guồng.
Trước kia, người trong làng
hoàn toàn ươm tơ bằng tay, phải mất gần 2 tiếng mới được một guồng tơ
nhưng nay có máy móc hỗ trợ, một guồng tơ chỉ mất 1 tiếng ươm. Sau khi
ươm được một guồng, người dân đem phơi lên các con sào.
Tơ sau
khi đã phơi khô được thương lái đến thu mua tận nhà, sau đó chuyển lên
làng dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông) và xuất đi các nước Thái Lan, Capuchia…
Hiện tại, 1 kg tơ tằm người dân có thể bán với giá từ 600.000 - 800.000
đồng.
Ươm tơ đã từng là nghề chính mang lại thu nhập cao cho
người dân trong xã, đặc biệt là người dân thôn Cổ Chất. Tuy nhiên, hiện
tại, làng nghề này đang đứng trước nguy cơ bị mai một.
Ông Nguyễn
Đình Kha, Trưởng thôn Cổ Chất cho biết, thôn có hơn 600 hộ dân. Trước
đây, cả thôn đều làm nghề ươm tơ, nhưng từ những năm 2000 trở lại đây,
nhiều người dần bỏ nghề đi làm công việc khác.
Hiện tại, trong
thôn chỉ còn hơn 20 hộ vẫn cố gắng duy trì nghề này nhưng lao động chủ
yếu là người già. Dù rất muốn bảo tồn, phát triển nghề truyền thống của
quê hương nhưng để có kén ươm tơ, các hộ phải mua từ các tỉnh như Thái
Bình, Lâm Đồng…
Không chỉ chi phí tăng lên mà trong quá trình vận
chuyển kén bị dập nát cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng tơ, trong khi
sản phẩm tơ hiện tại khó tiêu thụ, khiến người dân càng khó giữ nghề.
Hơn
nữa, để ươm được 1 kg tơ thì cần khoảng 10 kg kén. Hiện giá kén trên
thị trường ở mức 80.000 đồng/kg, lúc cao điểm tơ chỉ được 800.000
đồng/kg. Nếu trừ chi phí mua nguyên liệu, thuê người làm, ươm tơ cho
hiệu quả kinh tế rất thấp, thậm chí chỉ hòa vốn.
Hợp Hòa là thôn
chuyên làm nghề trồng dâu, nuôi tằm của xã Phương Định cung cấp kén cho
làng ươm tơ Cổ Chất. Những năm trước đây, cả vùng đất bãi dài chạy dọc
theo triền sông Ninh Cơ thuộc địa phận thôn đều trồng dâu, ước tính có
khoảng 15 ha nhưng hiện tại diện tích này chỉ còn 7 ha.
Do nghề
ươm tơ bị mai một, số hộ làm nghề ít nên người dân đã chuyển từ trồng
dâu, nuôi tằm sang trồng màu, nuôi trồng thủy sản.
Theo người dân
thôn Hợp Hòa, con tằm rất khó tính, chỉ cần ngửi mùi thuốc trừ sâu từ
cánh đồng bay vào nhà là toàn bộ tằm sẽ chết. Mặt khác, nuôi tằm lấy kén
tốn rất nhiều công lao động. Cứ 2 tiếng 1 lần người dân phải cho tằm
ăn. Lá dâu phải khô, tơi, không già quá.
Để tằm vào kén, người
dân phải chăm sóc và cho ăn liên tục khoảng 4 đến 5 ngày. Giá kén lúc
cao điểm cũng chỉ được khoảng 70.000 đồng/kg.
Thời gian lao động
nhiều, trong khi giá thành không cao. Vì vậy, từ nhiều năm nay, có tới
một nửa số hộ trong làng đã chuyển đổi cây trồng, con nuôi, số còn lại
chuyển sang nuôi tằm ré - loại tằm chỉ nuôi lấy nhộng làm thực phẩm.
Bà
Đặng Thị Yến, ở thôn Hợp Hòa, cho biết: Tằm ré dễ nuôi và ăn ít dâu hơn
tằm nhả tơ. Từ khi trứng nở đến khi đóng kén xuất bán chỉ mất từ 20 -
25 ngày, năng suất có thể đạt 4 kg tằm/nong, giá thành dao động từ
85.000 - 90.000 đồng/kg, cao hơn nhiều so với giá tằm lấy tơ. Vì thế, từ
năm ngoái đến nay, những hộ còn trồng dâu đều chuyển sang nuôi loại tằm
này.
Như vậy, nguồn cung cấp kén chính cho làng ươm tơ Cổ Chất
không còn, những người từng làm nghề và lớp trẻ trong làng cũng không
còn mặn mà với nghề, đa số họ đi làm tại các công ty tại địa phương với
mức lương ổn định hơn.
Mặc dù trong thời gian qua, có nhiều đoàn
nghiên cứu về khảo sát tình hình làng nghề với mong muốn gìn giữ, phát
triển nghề ươm tơ Cổ Chất.
Tuy nhiên, hiện nay chỉ những người
già là còn cần mẫn với những guồng kén và việc này có thể sẽ chẳng còn
ai làm nếu như lớp người này không còn, làng nghề ươm tơ nổi tiếng, có
tuổi đời hàng trăm năm của Nam Định cũng vì thế đang đứng trước nguy cơ
thất truyền.
Ông Vũ Phi Bằng, Phó Chủ tịch UBND xã Phương Định cho biết, hiện tại nghề ươm tơ Cổ Chất vẫn được các hộ dân gìn giữ.
Nhưng
nếu muốn bảo tồn, khai thác tiềm năng, thế mạnh của làng nghề ươm tơ
truyền thống gắn với phát triển du lịch, quảng bá thương hiệu, hình
thành điểm tham quan cho du khách thì cần có chiến lược lâu dài, nhất là
cần sự quan tâm, giúp đỡ của cả người dân và các cơ quan chức năng.
Để
giải quyết bài toán công ăn việc làm và thu nhập cho người dân trong
khi chưa tìm được giải pháp phù hợp nhằm tiếp tục phát triển nghề ươm
tơ, xã Phương Định đã quy hoạch vùng dệt bông sợi với diện tích 25 ha
tại hai thôn Cự Trữ và Cổ Chất.
Đến nay, đã có 4 doanh nghiệp dệt
hoạt động trên địa bàn xã, sản xuất các sản phẩm khăn, màn bằng sợi
bông thu hút hơn 2.000 lao động địa phương với thu nhập bình quân trên 3
triệu đồng/người/tháng./.
Theo: bnews.vn