Những
tưởng thời gian và cuộc sống hiện đại sẽ làm nón lá đi vào dĩ vãng, thế
nhưng có một ngôi làng mà tại đó hết thế hệ này đến thế hệ khác vẫn
đang âm thầm “giữ hồn” nón Việt. Đó là làng Chuông, còn gọi là làng
Phương Trung (Thanh Oai, Hà Nội).
Nghề cổ nguy cơ thất truyền
Theo quốc lộ 21B chúng tôi tìm về làng Chuông - Ngôi làng nổi tiếng
với nghề làm nón có từ hàng trăm năm. Tuy không nhộn nhịp như các làng
nghề khác, nhưng cũng vẫn dễ nhận ra cái dáng dấp của một ngôi làng với
nghề cổ.
Phiên chợ Chuông bên triền đê sông Đáy náo nhiệt, tấp nập, kẻ mua
người bán những vật liệu làm nón, như lá cọ, vành nón, chỉ khâu… đến
những chồng nón trắng nõn nà.
Ngay dọc hai bên đường, chúng tôi cũng bắt gặp những dải lá cọ để làm
nón trắng phơi mình dưới ánh nắng sớm làm không khí thật xôn xao.
Các bô lão trong làng kể: Từ lâu lắm tất cả các vùng miền Bắc Bộ ai
cũng biết tới câu ca lưu truyền trong dân gian kể về làng nghề làm nón
cổ: “Muốn ăn cơm trắng cá trê/ Muốn đội nón đẹp thì về làng Chuông”.
Họ bảo nghề làm nón của làng Chuông ngày trước thịnh lắm, cả làng đều
làm nón. Nón được sản xuất nhiều loại, dùng cho nhiều tầng lớp như: Nón
ba tầm cho các cô gái, nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp cho các
chàng trai và những người đàn ông sang trọng…
Cũng theo các cụ trong làng thì thời “hoàng kim” của nghề làm nón là
vào 3 thập niên đầu thế kỷ XX. Đấy là thời hưng thịnh nhất. Nghe kể khi
ấy những chiếc nón lá do các nghệ nhân làng Chuông làm ra còn được chọn
làm quà biếu cho các hoàng hậu, công chúa trong cung.
Tiếc thay do có một thời gian nền kinh tế khủng hoảng, cái đói, cái
nghèo khiến người làng Chuông phải bỏ làng để đi khắp nơi làm ăn, vì thế
nên những kỹ thuật làm nón ấy phần nào đã bị thất truyền.
Hành trình tìm lại “hồn” nón Chuông
Tưởng quên hẳn cái nghề làm nón, thế nhưng chính thời gian đi làm ăn
nơi xứ người bắt gặp những chiếc nón Huế được bán rất nhiều và được mọi
người ưa chuộng đã làm không ít người làng Chuông nuối tiếc nghề cổ.
Nhiều người đau đáu tìm cách khôi phục nghề làm nón, trong đó có ông
Hai Cát. Ông đã quyết tâm vào tận kinh kỳ để học cách làm nón Huế. Với
đôi bàn tay của người thạo nghề cùng với chút sáng tạo, ông Hai Cát dốc
toàn bộ vốn liếng mua nguyên liệu về làm nón.
Thời điểm ấy không có lá gồi, ông dùng lá cọ làng Chuông vẫn dùng để
làm nón quai thao từ xa xưa. Sau bao lần thí nghiệm thất bại, chiếc nón
ông làm tuy đã đẹp nhưng vẫn có màu vàng hơn so với nón Huế.
Không ngần ngại, ông đã vào tận Quảng Trị để mua lá gồi rồi làm lại
từ đầu. Lòng kiên trì đã dẫn tới thành công. Năm 1930, tại hội chợ
Trường Đấu Xảo - Hà Đông, nón của ông Hai Cát được cấp giấy hành nghề,
hiệp hội làm nón chứng nhận chất lượng cao.
Ông trở về quê hương với nghề làm nón mới cùng với 6 giấy phép dạy
nghề làm nón xuyên suốt từ Hà Đông, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng.v.v.
Nhờ tài năng, danh tiếng của ông Hai Cát, sau một năm, số người làng
quay về làng học nghề làm nón ngày một đông, làm hồi sinh lại nghề nón
làng Chuông.
Từ đó nghề làm nón làng Chuông lại tiếp tục nổi tiếng không chỉ khắp
trong nước mà vang xa ra tận nước ngoài. Ngôi làng nhỏ bé luôn tấp nập
khách ra vào.
Các chị làng Chuông cho biết: Để tạo ra chiếc nón đẹp, người làm nón
phải rất cẩn thận trong việc lựa chọn nguyên liệu. Lá được lấy từ Quảng
Bình, Phú Thọ... về vò trong cát rồi phơi nắng đến khi màu xanh của lá
chuyển sang màu trắng bạc, mỏng tang, nhưng phải bền, dai, phẳng mà
không giòn, không rách.
Trước khi đưa lá vào khuôn nón phải được là phẳng bằng cách miết
trên chiếc lưỡi cày (dụng cụ mà nông dân cày ruộng) được hơ nóng. Vòng
nón làm bằng tre vót nhỏ, đều, tuyệt đối không được cong vênh.
Trăn trở giữ nghề
Làm được những chiếc nón đẹp đã khó, việc lo tiêu thụ sản phẩm càng
khó hơn. Nhất là khi hiện nay, nhu cầu sử dụng nón không còn nhiều như
trước, giá của mỗi chiếc nón cũng quá rẻ.
Chị Tạ Thị Hương ở đội 6 vừa thoăn thoắt chẻ nan vừa trò chuyện vui
vẻ cho biết: Bây giờ, người chọn nón để đội không còn nhiều. Vì thế, một
chiếc nón vài năm trước bán được 70.000 - 80.000 đồng thì giờ chỉ còn
50.000 đồng, thậm chí còn ít hơn.
Do vậy số người làm nón không nhiều như trước nữa, phần lớn người dân
đã chuyển sang làm nghề khác. Bám trụ với nghề làm nón bây giờ chủ yếu
là các bà, các chị và các em nhỏ.
Chị Hương cũng tâm sự: Cũng vì thu nhập chẳng đáng bao nhiêu, nên
nhiều lúc cũng muốn bỏ nghề để kiếm việc khác có thu nhập cao hơn lắm.
Nhưng như cứ nghĩ đến việc các cụ tổ tiên phải bôn ba, vất vả mới
gây dựng được, nên đành cố giữ lấy nghề, dẫu nó không giàu, nhưng cũng
thêm thắt chút ít vào thu nhập cho gia đình. Hơn nữa nếu bỏ nghề, thì
con cháu sẽ làm sao nối dõi được nghề truyền thống của tổ tiên.
Đã hơn ba
thế kỷ nay, chiếc nón làng Chuông không chỉ che nắng, che mưa mà còn để
làm duyên cho người phụ nữ Việt Nam. Hằng tháng, cứ vào các ngày 4, 10,
14, 20, 24 và 30 âm lịch, đến hẹn lại lên, người làng Chuông chẳng ai
bảo ai mang những chiếc nón trắng tròn bán tại chợ sân đình. Sáu phiên
một tháng, 72 phiên chợ trong một năm như để khẳng định, làng Chuông vẫn
âm thầm giữ hồn nón Việt.
Theo : giaoducthoidai.vn