Hậu thời vàng son
Theo
Hiệp hội làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước có khoảng 2.017 làng nghề
truyền thống với 11 triệu lao động, số lượng lao động là thanh niên chỉ
chiếm 35%, khiến nhiều làng nghề truyền thống đang có nguy cơ thất
truyền, mai một dần.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến các làng
nghề dần dần bị lụi tàn. Một phần do sản phẩm thủ công không còn đủ sức
cạnh tranh với những sản phẩm công nghiệp, sản phẩm bán ra không nhiều
nên các làng nghề không chịu nỗi sức ép cạnh tranh.
Phần nữa,
người tiêu dùng cũng không còn ưa chuộng sản phẩm của làng nghề bởi nó
không còn giữ được nét nguyên sơ truyền thống nhưng lại không được đẹp
như các sản phẩm công nghiệp.
Còn một nguyên nhân quan trọng
khác phải kể đến là các thế hệ sau dường như không còn mặn mà với làng
nghề truyền thống, yếu tố “cha truyền con nối” dần mất đi, làng nghề
cũng trở nên “yếu ớt” trước cơn lốc thị trường.
Từ Trung bộ ra
Bắc bộ, không ít làng nghề đã ngừng hoạt động. Quảng Ngãi từng là nơi
tồn tại của hàng chục làng nghề truyền thống nhưng cho đến hiện tại chỉ
còn 3 làng nghề tồn tại: làm chổi, dệt chiếu và đan lác. Đà Nẵng, Quảng
Nam, Bình Định là những tỉnh có làng nghề truyền thống nhiều và hoạt
động mạnh nhất ở khu vực miền Trung vào những năm 90 của thế kỷ XX.
Bài
toán tìm đầu ra cho sản phẩm làng nghề truyền thống không chỉ phụ thuộc
vào thị trường trong nước. Để phát triển, các sản phẩm đó phải khoác
lên mình diện mạo mới và vươn ra thị trường quốc tế. Tuy nhiên, tính đến
thời điểm hiện tại, chỉ còn vài làng nghề hoạt động nhỏ, lẻ với vài
ngàn lao động hoặc hoạt động theo quy mô gia đình.
Nếu như gốm
xứ Bát Tràng nổi danh ở Hà Nội được người dân ưa chuộng thì vài năm trở
lại đây, sự xuất hiện của các mặt hàng thủy tinh, nhựa đã khiến gốm Bát
Tràng thưa thớt khách hàng, hàng hóa ứ đọng. Làng tranh Đông Hồ cũng
đang dần mất đi thị trường vì khách hàng không còn mặn mà. Thay vào đó,
những người làm tranh Đông Hồ phải chuyển sang làm vàng mã để tồn tại.
Những
năm 1998 - 2001, nghề tơ tằm ở Bắc Ninh phát triển rất mạnh, số lao
động tham gia lên đến vài chục ngàn nhưng cho đến thời điểm hiện tại,
chỉ còn có vài hộ gia đình duy trì, lao động làng nghề tơ tằm thì chuyển
sang ngành nghề khác.
Lối thoát và cơ hội
Thoi
thóp trước sức ép cạnh canh với các mặt hàng công nghiệp hiện đại, một
số làng nghề khác như tò he, mộc Sấu, đan bàng… đang đứng trước nguy cơ
mất hẳn. Trước tình hình đó, một số làng nghề trong cả nước đang dần
thay đổi để có thể phù hợp với thị trường hơn.
Với mong muốn
dựng lại làng nghề truyền thống của cha ông, không ít bạn trẻ đang mang
nhiều ý tưởng mới, hình thức mới trở về vựt dậy làng nghề. Bên cạnh
những mặt hàng truyền thống, chủ đạo trước đây của làng nghề, thế hệ trẻ
cải tiến, cho ra đời nhiều mặt hàng mới, kiểu dáng hiện đại, thời
thượng hơn. Có thể nói, đây là một cuộc cải cách mới cho làng nghề để
tiếp tục giữ lửa và truyền lửa dài lâu.
Những người trẻ với quyết tâm
cống hiến bằng tất cả các kiến thức mà mình có được hứa hẹn sẽ đêm đến
cho các sản phẩm làng nghề truyền thống diện mạo mới. Đó là sự kết hợp
giữa yếu tố hiện đại và truyền thống.
Cuộc cách mạng sản phẩm
đang diễn ra trong lúc thị trường đang có xu hướng sử dụng các sản phẩm
thiên nhiên. Chất lượng cuộc sống đang ngày càng đươc cải thiện, người
tiêu dùng quá ngán ngẫm trước những sản phẩm công nghiệp với thành phần
làm từ các hóa chất độc hại, tàn phá môi trường. Hơn bao giờ hết, nhu
cầu “sống sạch”, thân thiện với môi trường đang dần hình thành và phát
triển trong suy nghĩ của những người tiêu dùng hiện đại.
Sau quá
trình “thai ngén”, cuộc đại cách mạng bùng nổ, các làng nghề sẽ được
vượt dậy. Rồi đây, các sản phẩm không chỉ phát triển ở thị trường trong
nước mà nó còn vươn ra thị trường quốc tế.
Sản phẩm làng nghề
truyền thống phát triển trong nước đáp ứng nhu cầu sử dụng sản phẩm tự
nhiên của người tiêu dùng. Khi tiếp cân thị trường thế giới, sản phẩm
của các làng nghề sẽ là cầu nói, mang hình ảnh về con người và văn hóa
Việt Nam khắp 5 châu.
Theo: phapluatplus.vn