Làng Việt chứa đựng hệ
thống di sản văn hóa đồ sộ cả về vật thể và phi vật thể phân bố ở cả 3
miền. Tuy nhiên công tác bảo tồn di sản làng Việt vẫn còn gặp nhiều khó
khăn, chính vì thế việc giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa kinh tế và
văn hóa nói chung, giữa bảo tồn và phát triển nói riêng là vấn đề đáng
được quan tâm ở nước ta.
Đó
là những chia sẻ được đưa ra tại tọa đàm “Di sản làng Việt và phương
pháp tiếp cận mới trong công tác bảo tồn” vừa diễn ra tại Trường ĐH Xây
dựng Hà Nội.
Cổng làng Nôm mang đậm kiến trúc truyền thống.
Nguy cơ mất làng truyền thống
Theo PGS.TS Phạm Hùng Cường- nguyên Phó
Hiệu trưởng Trường ĐH Xây dựng, Đồng bằng sông Hồng có khoảng 3.500 làng
truyền thống hình thành từ 200 – 500 năm hoặc lâu hơn. Làng truyền
thống mang các đặc trưng: làng nghề, làng thuần nông, làng đang bị đô
thị hóa... nhưng hiện nay chỉ có một số ít làng đã được công nhận di sản
văn hóa cấp quốc gia như Đường Lâm hay làng Nôm với các di sản văn hóa
kiến trúc vật thể có giá trị. Tuy nhiên các giá trị di sản đang dần mất
đi với tốc độ nhanh, dưới tác động của đô thị hóa và sự chuyển biến môi
trường kinh tế xã hội nông thôn. Ở nhiều khu làng, các giá trị di sản
vật chất đang bị tổn hại nghiêm trọng: Lũy tre mất tính bảo vệ, chỉ còn
lại một số cụm hoặc mất hẳn, giếng làng không còn vai trò cấp nước mà
dành cho việc chăn nuôi, cổng làng, cổng nhà được đập đi xây lại với lối
kiến trúc mới cùng với sự xuống cấp của đình, chùa, miếu, phủ… đang
ngày càng trầm trọng hơn khi không có phương pháp cụ thể tôn tạo và bảo
tồn hợp lý.
Bên cạnh việc công tác bảo tồn hiện nay
còn đang tồn tại rất nhiều hạn chế như: bảo tồn diễn ra vẫn còn chậm,
đơn lẻ, phiến diện (đa phần là đình chùa miếu mạo) và thường mang tính
tự phát, chủ yếu là do nhân dân thực hiện. Hơn nữa công tác bảo tồn tổng
thể đang được triển khai chỉ có 2 làng cổ trên toàn quốc là Đường Lâm
và Phước Tích. Chính vì thế mà vấn đề cần đặt ra hiện nay đó là làm thế
nào để đẩy nhanh, phủ rộng công tác bảo tồn các giá trị di sản làng
Việt, ngăn chặn kịp thời sự mất mát di sản, trong bối cảnh nguồn ngân
sách đang còn hạn chế
Có thể bảo tồn về mặt giá trị tinh thần
Những phân tích đưa ra tại tọa đàm vừa
rồi cũng chỉ ra rằng, thực chất những mô hình bảo tồn nguyên gốc toàn bộ
làng Đường Lâm, Phước Tích đang hướng tới bảo tồn gốc vật thể là… giá
trị tinh thần giả, tái dựng và tái hiện lại, nên luôn tạo nên sự xung
đột xã hội. Điều đó đặt ra vấn đề là có thể chỉ nên lựa chọn một vài mô
hình trong tổng thể các giá trị của làng Việt truyền thống lâu đời, để
có thể phục hồi và bảo tồn một cách tốt nhất, cố gắng giữ gìn lại những
phần còn sót lại của làng cổ Việt Nam.
Tại đây, PGS.TS Đào Ngọc Nghiêm- Phó chủ
tịch Hội Qui hoạch Phát triển Đô thị Hà Nội đồng tình: Tôi cũng rất tán
thành với cách thức bảo tồn để thích ứng với cuộc sống mới và giá trị
di sản phải là giá trị động. Đây là một cách nghĩ cần được cụ thể hóa.
Còn theo ông Phạm Hùng Cường thì ý thức
của người dân hiện nay không phải là vấn đề lớn đáng báo động. Bởi hầu
hết người dân vẫn còn giữ được những giá trị truyền thống rất sâu sắc
nên việc bảo tồn hay tu bổ các di sản có thể thực hiện được. Tuy nhiên
với việc nhiều khu làng đang xuống cấp trầm trọng như hiện nay, việc mất
đi những di sản này mất đi chỉ còn là vấn đề “sớm hay muộn” mà thôi. Vì
lẽ đó, để công tác bảo tồn hiện nay mang lại kết quả, việc đầu tiên là
phải chia các di sản cần được bảo tồn thành những nhóm riêng để cách
thức và phương pháp bảo tồn phù hợp với thực tại: với những nhóm cần
được bảo tồn còn giá trị tinh thần và giá trị sử dụng gốc như: đình,
chùa, miếu, phủ… có giá trị cao về kiến trúc và ý nghĩa lịch sử văn hóa
thì phải tiến hành bảo tồn tôn tạo sớm để trở thành di tích được công
nhận xếp hạng; Ở những nơi không còn nguyên vẹn sẽ bảo tồn các giá trị
tinh thần là chủ yếu. Cố gắng tái tạo lại giá trị vật thể: các đình,
chùa, miếu… hư hỏng nếu như không có tài liệu gốc thì cho xây dựng lại
theo phong cách truyền thống để phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng của nhân
dân. Đối với những nhóm di sản có giá trị tinh thần, giá trị sử dụng gốc
đã thay đổi (cổng làng, ao làng, giếng làng, lũy tre, cổng làng…) thì
nên kế thừa và bổ sung giá trị tinh thần mới, trên vật thể còn có thể
bảo tồn. Hoặc có thể bổ sung giá trị tinh thần, giá trị sử dụng mới xen
kẽ với tôn tạo xây dựng phù hợp với giá trị tinh thần mới.
Tuy nhiên, cũng theo PGS.TS Phạm Hùng
Cường, một số di sản chỉ có thể bảo tồn được khi có sự tham gia và giúp
đỡ của cộng đồng, nhiều di sản thuộc quyền sở hữu cá nhân nếu như không
được sự đồng ý của nhân dân thì không thể làm được. Chính vì lý do này,
việc bảo tồn di sản làng Việt cần có sự tham gia và tự thay đổi nhận
thức của cộng đồng, việc bảo tồn phải thích nghi với đời sống hiện đại
thì mới có thể mang lại kết quả tốt.
Tọa đàm cũng đi đến thống nhất, giá trị
của các di sản làng xã truyền thống là giá trị của văn hóa xây dựng môi
trường sống cộng đồng. Nó có sự biến đổi, kế thừa, bổ sung và thể hiện
sự thích nghi với môi trường, với sự biến đổi của kinh tế - xã hội chứ
không phải là các giá trị tĩnh. Vốn di sản làng xã Việt Nam còn thể hiện
ở các hệ giá trị di sản phi vật thể như môi trường sống, văn hóa và đặc
biệt nó phải được quyền phát triển, đó chính là điều không thể đảo
ngược trong điều kiện đô thị hóa nhanh ở Việt Nam hiện nay. Nếu chính
quyền và cộng đồng không hành động sớm thì sẽ mất đi di sản các làng xã
vào đô thị hóa và ô nhiễm môi trường.
Theo: daidoanket.vn