Khoảng 20 năm gần đây, gốm Sài Gòn
là cách gọi gộp chung cho các dòng gốm chính yếu tại Sài Gòn - Chợ Lớn
xưa, trong đó có gốm Cây Mai, vì thế, đôi lúc loạn xì ngầu về nhận diện.
Gốm
tại Sài Gòn nói chung đã kế thừa, tiếp thu từ các dòng gốm chính như
thái dứu đào (men màu, Quảng Đông), hắc dứu đào (men đen, Phước Kiến),
bạch dứu đào (men trắng, Triều Châu). Trong đó, gốm Cây Mai thuộc thái
dứu đào, còn gốm Sài Gòn thuộc bạch dứu đào.
Chậu màu vẽ tùng cúc, mặt trăng và chim Hồng Hoàng, cao 27cm
Trong cuốn sách Gốm Sài Gòn
(NXB Trẻ, quý 4/2015) vừa xuất bản, nhóm tác giả Huỳnh Ngọc Trảng -
Nguyễn Anh Kiệt - Hồ Hoàng Tuấn đã chỉ ra sự khác biệt căn bản giữa gốm
Sài Gòn so với các dòng gốm khác tại đây. Và cũng cho biết địa bàn của
gốm Sài Gòn trải dài từ cầu Ông Lãnh (quận 1) cho đến chợ Hòa Bình (quận
5), trong khi “tổng hành dinh” của các lò gốm Cây Mai, nơi đặt Đào lư
hội quán, lại ở gần đình Phú Hòa (phường 12, quận 6).
Khay trà của xưởng Nam Phong. Sưu tập của Nguyễn Anh Kiệt
Theo
khái niệm được tách bạch trong sách vừa nêu, thì gốm Sài Gòn có mấy đặc
điểm chính. Thứ nhất, nó thuộc dòng bạch dứu đào, với cao lanh nhập từ
bên ngoài về sản xuất, do Sài Gòn không có cao lanh. Phối hợp với màu
xanh nước biển, nên gốm Sài Gòn có màu xanh trắng chủ đạo.
Đĩa vẽ cua. Sưu tập của Nguyễn Anh Kiệt
Thứ
hai, nếu chia gốm thành 3 loại chính: thổ khí (terracotta: đất nung),
đào khí (ceramic: tráng men), và từ khí (porcelain: sứ), thì gốm Sài Gòn
thuộc sứ, nhưng chỉ bán sứ. Khi kỹ thuật này về đến Lái Thiêu (Bình
Dương), do nơi đây không nhập cao lanh, thành ra sản phẩm trở lại với
thổ khí, giá bán rẻ, dân chúng dễ mua bán.
Thủy bồn men phun vẽ ngựa, hoa điểu. Sưu tập Nguyễn Anh Kiệt
Thứ
ba, gốm Sài Gòn được sản xuất nhiều chủng loại, đặc biệt các sản phẩm
cho công nghệ, với kỹ thuật vẽ trau chuốt, giàu tính mỹ thuật…
Gốm
Sài Gòn ra đời nửa đầu thế kỷ 20, tồn tại đến khoảng 1957 thì di dời
khỏi địa bàn, do quá trình đô thị tác động và nguồn vật liệu nơi đây khó
khăn.
Theo: thethaovanhoa.vn