Đồ đan của người Thái và... một kỹ nghệ sắp ra đi
Tiếp tục vệt khảo sát đời sống
văn hóa vùng Tây Bắc đất nước (xem TTCT số 25 và 27), nhà nghiên cứu
văn hóa Phan Cẩm Thượng giới thiệu với chúng ta những sản phẩm và kỹ
nghệ đan lát của người Thái, từng một thời tinh xảo nay đang dần lùi xa.
|
Bồ đựng quần áo, hành trang |
|
Hộp đựng có nắp |
Một người bạn của Vũ Hiếu - người lập ra Bảo tàng Không
gian văn hóa Mường - cũng muốn hình thành một bảo tàng cho tộc người
Thái. Anh sống ở Mai Châu, một huyện thuộc tỉnh Hòa Bình, kề cận tỉnh
Sơn La, nơi có nhiều người Thái sinh sống, đặc biệt là người Thái Trắng.
Trong một thời gian dài anh đã sưu tầm những đồ dùng
người Thái, từ đồ đan, thổ cẩm, nông cụ và cả những đồ nhà binh thời
người Pháp đóng quân ở Tây Bắc, như biđông, đồng bạc hoa xòe, đèn và huy
chương. Để đi đến việc thành lập bảo tàng là việc khó khăn dù đã có một
bộ sưu tập nhất định. Chúng tôi đã được anh cho xem nhiều vật dụng còn
nằm trong dự định chưa công bố của anh.
Trong bài viết này, chúng tôi cũng không giới thiệu tên
tuổi lai lịch nhà sưu tầm, mà chỉ giới thiệu phần đồ đan (mây tre đan),
một kỹ nghệ không thể thiếu đối với bất cứ dân tộc nông nghiệp nào,
những kỹ nghệ tài hoa đang mất đi khi xã hội công nghệ hiện đại chiếm ưu
thế.
Là một đất nước nông nghiệp, nhiều núi rừng, hầu hết
các sắc tộc sống trên mảnh đất Việt Nam đều có kỹ nghệ đan lát - nhất là
mây tre đan. Nhưng đan bằng lá, cỏ và các loại dây rừng thì không phổ
biến như nhiều thổ dân trên thế giới.
Người Kinh (Việt), người Mường, người Tày, người Nùng,
người Tây nguyên đều có kỹ nghệ đan được nâng lên đến mức nghệ thuật, mà
có thời đồ đan được dùng trong xuất khẩu. Người Thái ở Việt Nam cũng có
một nền đan lát đáng nể, thuộc diện đứng hàng đầu, kỹ nghệ này thể hiện
ở hình dáng đa dạng, hoa văn đan cài và kỹ thuật đan khó.
Ba đặc điểm này đều có thể thấy được ở những đồ đan
Thái thông dụng. Do người Mường và người Thái sống kề cận nhau nên kỹ
thuật đan Mường Thái có ảnh hưởng qua lại, thậm chí có nhiều đồ rất khó
phân biệt. Khi đi rừng, làm nương, hái được chút rau, bắt được chút cua
cá thì việc tìm một loại lá gói kết nó thành một cái túi đựng là rất
thông thường, đứa trẻ, bà già nào cũng làm được.
Còn khi đi bán hoa quả, người ta đan một loại giỏ đựng
tạm thời và xỏ vào chiếc đòn gánh ra chợ, cái giỏ này giống như bu gà
của người Việt để đem gà ra chợ hoặc nhốt tạm ở sân. Một cái giỏ có nắp
để những đồ nhỏ trong nhà: kim chỉ, kéo, chút tiền, hoặc đựng trầu cau,
luôn là cần thiết.
Những chiếc giỏ này được các bà các cô đeo bên sườn khi
ra ngoài. Một cái rá dỡ xôi sau khi đổ để cạnh mâm cơm cho cả nhà ăn
cũng từng phổ biến, nhưng khác với cái rá của người Việt, cái rá của
người Thái và Mường có chân bằng gỗ hoặc bằng tre và chỉ có nhiệm vụ
đựng cơm nếp nương.
|
Hộp đựng kim chỉ có nắp, đan có hoa văn |
|
Đồ đựng (cơm nếp nương, rau) có chân |
|
Gùi thông thường đi nương |
Bồ đựng quần áo là sản phẩm đặc biệt của đồ đan Thái
(và Mường, người Mường gọi là trò ổ). Cái bồ này được đan hai lớp rất kỹ
lưỡng, hình dáng tròn trặn, có nắp đậy. Khi cô gái về nhà chồng thì bà
hay mẹ sẽ cho đem theo để đựng tư trang, quần áo.
Các loại mâm cúng và mâm dùng thường nhật cũng được đan
rất kỹ, với kỹ thuật khó nhất. Mâm và bồ là hai sản phẩm đan cao cấp
của người Thái, mà thường do những người thợ có tay nghề cao nhất trong
cộng đồng thực hiện.
Đồ đan bao trùm lên đời sống sinh hoạt của người Thái,
từ giỏ ra đồng bắt cua cá, giần sàng đồ làm gạo như của người Kinh, đến
những loại ít thấy như túi đi ngoài đường, hộp đựng trong nhà... tất cả
đều bằng mây tre đan, trong khi ở xuôi những món đồ như mâm, hộp, túi đã
được chuyển sang chất liệu khác như gỗ và vải.
Việc đan nhiều chủng loại đồ cho thấy đồ đan được dùng
trong cộng đồng Thái nhiều hơn bất cứ sắc tộc nào ở Việt Nam, mặt khác
cho thấy kỹ thuật đan lát được nâng lên mức độ cao và phổ biến. Cấu trúc
hoa văn quả trám, lục lăng, hoa văn cây, chim thú, mặt trống đồng...
người Thái đều có thể lồng vào trong một đồ dùng nào đó.
Đáng tiếc khi rừng đang lùi xa, người già có tay nghề
qua đời dần, lớp trẻ thích dùng những đồ tân thời, kỹ nghệ đan lát tuyệt
vời của người Thái dần dần mất đi. Chúng tôi vẫn thường đi các chợ
phiên miền núi tìm mua đồ đan, nhưng chỉ còn rất ít người làm và bán.
Đan lát những món hàng này cũng vẫn là mấy người già
không biết còn sống được bao nhiêu lâu. Cái chính là những đồ đan bán ở
chợ thì chỉ có thể dùng thông thường chứ rất ít tính nghệ thuật, không
so sánh được với các sản phẩm cao cấp của người Thái xưa.
Theo: tuoitre.vn