Nghệ nhân Nguyễn Quang Thiện và cái lọng cuối cùng
Võng điều, lọng tía gắn liền với các triều đại
phong kiến Việt Nam. Thời đại thay đổi và cái lọng gần như biến mất khỏi
đời sống, nghề làm lọng chỉ còn lại trong ký ức của một nghệ nhân già ở
làng Mỹ Xuyên.
Ông Nguyễn Quang Thiện, 80 tuổi là nghệ
nhân làm lọng cuối cùng ở làng Mỹ Xuyên (Nam Phước, Duy Xuyên-Quảng
Nam). Làng bên bờ sông Thu Bồn, ngay sát đầu cầu Câu Lâu nằm trên Quốc
lộ 1 chạy qua tỉnh Quảng Nam. Mỹ Xuyên có quá trình lịch sử từ thời vua
Lê Thánh Tông đi mở đất. Thời Pháp thuộc, người Pháp mở một xưởng rượu
Sika tại làng này nên bây giờ làng còn có tên là Tiệm Rượu.
Dòng họ Nguyễn Quang nhiều đời theo nghề
làm lọng và trống cho chốn quan trường. Ông Thiện cho biết: “Tôi nghe
cha tôi kể lại, đời ông cố, ông nội tôi chuyên làm lọng cho triều đình
Huế. Từ năm 10 tuổi, tôi bắt đầu học nghề từ cha tôi”.
Để hoàn chỉnh một cái lọng phải mất từ
12 đến 15 ngày miệt mài làm việc. Đầu tiên, chọn một cây tre đực đường
kính khoảng 5cm, chiều cao khoảng 2m, phơi khô đánh bóng, làm thân lọng.
Lấy một khúc gỗ mít tiện thành hình khối
có đường kính 10cm, rỗng ruột gọi là “gen”, trên đầu khối gen xẻ ra 46
hoặc 48 đường sâu, không được lẻ. Tiếp theo là cây chống được làm từ
những nan tre, cây dài khoảng 30cm có 20 lỗ khoan, cây ngắn khoảng 20cm
có 16 lỗ khoan, những cây chống này xếp xen kẽ dài ngắn vào khối gen ở
trên.
Tiếp theo nữa là cây sườn, cũng giống
như cây chống nhưng dài hơn và được uốn cong một đầu, có 8 lỗ mạng và 1
lỗ cuối để kết nối với cây chống. Sau khi lắp ráp xong thành hình giống
chiếc dù, bán kính của khung lồng phải bằng 1,2m để thuận lợi cho việc
phủ áo lên trên.
Công đoạn khó nhất và đã tạo nên giá trị thật sự cho cây lọng là phần
thêu. Nghệ nhân phải chọn được 7 màu len phù hợp để phối màu đan len.
Lọng chia làm 5 tầng, đầu tiên là giăng kiên, đan lên xuống qua lại
nhiều lần theo một quy luật nhất định để tạo ra hình mũ địa tạng.
Tiếp theo là đan chéo hạt cườm với màu
len nổi bật rực rỡ. Phần đan lát chả đòi hỏi sự khéo léo, người thợ phải
có kĩ thuật điêu luyện. Lát chả đan thành hình chữ nhật rõ ràng và đều
nhau, phải biết phối màu len hài hòa để tránh sự cầu kì và giữ sắc thái
trang trọng.
Ngoài ra, giao điểm của cây chống và cây
sườn được đan thành hình mạng nhện một cách tỉ mỉ, không được sai sót.
Mạng nhện phải kín, tránh để lộ những giao điểm giữa chống và sườn đồng
thời làm cho cây lọng trở nên vuông vức. Đó là những công đoạn chính khi
làm lọng, những công đoạn phụ như phủ áo, làm bóng, quét sơn cũng cần
được đảm bảo...
Theo nghệ nhân Nguyễn Quang Thiện, đời
ông nội của ông trở lên hay làm lọng theo đơn đặt hàng ngoài Huế. Ngày
xưa, chỉ cần nhìn vào màu sắc và số lượng người ta sẽ biết phẩm hàm của
người dùng lọng. Ví như hàng khanh tướng thì đi ba lọng xanh, phẩm hàm
nhỏ hơn đi hai lọng một lọng, người thuộc hoàng tộc thì đi lọng tía,
lọng vàng trong miếu thờ thần...
Lọng đi vào cả tín ngưỡng của đời sống dân gian. Người nằm mơ thấy lọng
là điềm lành, thấy lọng vàng báo hiệu đỗ đạt, lọng trắng phát tài to...
Đến đời ông Thiện, lọng chỉ còn sử dụng trong đình miếu thờ thần thánh.
Thời đại đã đổi thay, cái lọng đã dần
dần biến mất khỏi đời sống. Ngoài nghề làm lọng, ông Thiện còn nghề bịt
trống và chơi nhạc cho các đám đình quanh vùng. Tám mươi năm tuổi đời,
70 năm nghề, bàn tay tài hoa của ông đã không biết bao lần cố gắng níu
giữ giá trị truyền thống, một nét đẹp văn hóa của dân tộc đang bị lãng
quên. Những năm trước, các nhà thờ, đình miếu quanh vùng thường đặt ông
Thiện làm lọng. Gần đây, do tuổi cao, mắt kém, nghệ nhân Nguyễn Quang
Thiện đã giải nghệ. “Nghề này đòi hỏi sự chính xác ở đôi bàn tay khéo
léo và cặp mắt tinh tường” – ông Thiện nói.
Theo: tienphongonline