Hơn 300 năm
qua, đàn ông dân tộc Nùng An ở xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao
Bằng trổ tài khéo léo, sức bền bỉ và tính cần cù bên những lò rèn quanh
năm đỏ lửa. Từ thành phố Cao Bằng, đi 30km về phía Đông Bắc, theo hướng
quốc lộ 3 đi cửa khẩu Tà Lùng, bên cánh đồng uốn lượn lúa, bắp, khoai,
mía…, tôi gặp những lán tre hay gỗ đơn sơ giá treo đầy dao, liềm, búa,
cuốc…; tai nghe những tiếng đập búa giòn giã, lửa lò reo phần phật, máy
mài xoèn xoẹt, sắt đỏ nhúng nước xèo xèo.
Quan trọng nhất là tôi
Thấy bên tay trái có một lán khang
trang, dao sáng loáng treo trên giá, lại thấy bảng tên Lưu Luyến dễ
thương nên tôi rẽ vào. Sinh ra trong một gia tộc đã 8 đời làm nghề rèn
nên ngay từ năm 13 tuổi, anh Nông Lưu Luyến (sinh năm 1971) đã xuống lò
rèn với cha để học việc. Đầu tiên anh giúp cha vào lửa, dùa thép mỏng
đều, làm chuôi dao, thân dao, cuối cùng mới được làm lưỡi dao. Nhìn cha
làm học theo, cái gì không hiểu phải hỏi để được chỉ bảo thêm, mất đến 3
năm anh Luyến mới được lên làm thợ cả. Anh bảo rằng làm nghề này phải
biết phân biệt từng loại thép để quyết định dùng rèn vật dụng gì, nung
bao nhiêu lâu thì đạt. Mỗi loại thép lại phải nung một độ lửa, lửa không
được già quá hay non quá. Đốt lò bằng than củi vừa đủ nhiệt độ lại đều,
trong khi than đá nhiệt độ quá cao sẽ khiến thép giòn, dễ mẻ. Ví như
rèn dao, lửa già quá thì thép biến thành gang, khi nhúng vào nước thép
sẽ giòn nên khi thái, chặt dễ mẻ; non quá thì dao quăn, cùn. Lửa vừa với
chất thép lưỡi dao mới tốt. Lấy cái kìm kẹp miếng thép vùi vào than
hồng, khi thép chín mang ra đặt lên đe, lấy búa quai đều tay đập mỏng
phần lưỡi, dàn đi dàn lại cho thép bóng đen lên. Lại đưa vào nung cho
lưỡi dao hồng lên, gắp ra nhúng vào chậu nước để tôi, rồi lại để lưỡi
dao oằn mình trên đe dưới búa mà cân chỉnh, cuối cùng mới đến công đoạn
mài cho sắc. “Để có lưỡi dao sắc và bền thì quan trọng nhất là khâu tôi.
Phải nhìn màu của miếng thép khi nung, nếu bị đỏ quá sản phẩm hoàn
thiện sẽ giòn nên chỉ cần nung vừa phải, khi thép màu da cam là phải gắp
ra khỏi lò. Việc dùng nước lạnh để tôi giúp sản phẩm sắc hơn, bền hơn
song đòi hỏi sự tinh tế và phải mất nhiều thời gian mới rút kinh nghiệm
được. Dao tốt dùng được ít nhất 15 năm, có con dùng cả đời không hỏng”,
anh Luyến cho biết. Mỗi ngày anh rèn được từ 6 đến 8 con dao, giá bán
mỗi con dao từ 80.000 - 150.000 đồng, trừ chi phí còn lời một nửa. Một
năm gia đình anh thu nhập hơn 20 triệu đồng từ nghề rèn.
|
Hình ảnh quen thuộc ở xã Phúc Sen, những chiếc lán đơn sơ bày bán các sản phẩm nghề rèn. |
Anh Long Văn Chiến, 52
tuổi, có 37 năm trong nghề. Anh thành lập Hợp tác xã Long Chiến vào năm
2010, quy tụ 12 người làm nghề rèn theo tổ hợp. Xưởng rèn của ông chủ
nhiệm hợp tác xã nằm ngay đầu đường rẽ vào xóm Pác Rằng, biển hiệu được
thiết kế lớn, bắt mắt; gian trưng bày và giới thiệu sản phẩm được làm
khá tốt, có cả phần hình ảnh giới thiệu tường tận quy trình sản xuất;
trong khu xưởng khang trang, anh đầu tư sắm cả máy dập, máy mài. Hợp tác
xã Long Chiến rèn dao, búa, cuốc, xẻng, liềm hái, bướm, đúc lưỡi cày…
Anh Chiến cho biết: “Trung bình mỗi ngày 1 người làm được 4 sản phẩm,
thu nhập từ 180.000 - 240.000 đồng. Chúng tôi gửi sản phẩm đi bán khắp
nơi trong cả nước và sang cả Nà Po, Trịnh Tây, Long Châu của Trung Quốc.
Từ năm 2006 đến nay, tôi đã mang hàng đi dự hội chợ thương mại ở các
tỉnh: Bắc Ninh, Lào Cai, Thái Nguyên, thành phố Hà Nội và Hải Phòng”.
Theo
anh Chiến, nghề rèn nhìn đơn giản nhưng thực ra công phu lắm. Trước
tiên phải mua được thép tốt, tốt nhất vẫn là nhíp của ô tô Zil, IFA để
làm dao; trục xe máy cày, bánh xe xích để rèn búa... Sau đó khâu quyết
định là kỹ thuật tôi. Khó nhất là rèn loại dao thái thuốc lá dài 70cm,
đòi hỏi người tôi phải có kinh nghiệm và tay nghề cao, kỳ công lắm mới
làm được.
Người làm nghề rèn phải mạnh khỏe, dẻo dai, mắt tinh
tai thính cảm quan tốt và đặc biệt tính nết phải cẩn thận, nhẫn nại. Ông
Nông Văn Hiệp năm nay 64 tuổi, năm 14 tuổi, đã ngồi cạnh lò rèn của cha
và học cách luyện dao. Cứ mỗi khi đi học về, ông lập tức bám lấy cha và
anh trai lớn để xem cách quai búa, cách phân biệt nước tôi dao và cách
nung cho vừa độ dẻo của thép. 16 tuổi, ông đã được cha giao cho một lò
rèn để kiếm sống. Về quy trình rèn, ông Hiệp giảng giải: “Khi nào rèn
được phần lưỡi ưng ý thì người ta mới trau chuốt đến phần thân và chuôi
dao. Hình dáng có thể sửa được nhưng độ sắc ngọt thì chỉ rèn một lần”.
Nghề cha truyền con nối
Đến xã Phúc Sen, đi đến đâu cũng
bắt gặp hình ảnh thân thuộc: những lò đỏ rực lửa, than nổ lép bép, hoa
bắn tung tóe, tiếng sắt nóng nhúng vào nước xèo xèo, tiếng búa chan
chát, lanh tanh, tiếng máy mài xè xè. Toàn xã có 423 hộ gia đình với
1.982 người thì có một nửa làm nghề rèn. 6 trong 10 của xã có dân làm
nghề rèn là Phja Chang trên, Phja Chang dưới, Đâu Cọ, Tình Đông, Pác
Rằng và Lũng Vài. Sản phẩm chủ yếu là hàng nông cụ và đồ nghề mộc. Trong
cuộc chiến tranh chống Pháp, dân Phúc Sen đã tham gia đúc súng thần
công và vỏ lựu đạn phục vụ kháng chiến. Trước kia bà con rèn rồi gồng
gánh dao, cuốc, búa, liềm, lưỡi cày… đi bộ mấy ngày trời lên tận các chợ
huyện Trà Lĩnh, Thông Nông, Trùng Khánh, Thạch An… để bán. Bà con bán
sản phẩm rồi lại mua những nông cụ cũ, nhíp ô tô cũ… về để có nguyên
liệu sản xuất. Thế là đi đã nặng mà về còn nặng hơn! Dần dần có những
người chuyên đi thu mua nhíp ô tô cũ mang đến bán tận nơi rồi lại lấy
sản phẩm của bà con mang đi khắp nơi tiêu thụ. Từ 2 - 3 năm nay, đồng
bào vươn ra hai bên mặt đường xây lò, dựng hiệu thành phố chuyên doanh.
Xe cộ tấp nập mua sản phẩm, những người lái xe cũng bán cho đồng bào
những thanh nhíp hỏng. Thế là tạo thành tổ hợp sản xuất, bà con buôn bán
tốt hơn. Thông thường, đến mùa phát nương, làm rẫy (từ tháng 10 năm
trước đến tháng 1 năm sau), lượng hàng tiêu thụ tăng đột biến. Nhiều gia
đình không đủ hàng để bán.
Ông Linh Văn Phù, Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân xã Phúc Sen, cho biết: “Nghề rèn ở Phúc Sen có lịch sử hơn 300
năm và theo hình thức cha truyền con nối và chỉ truyền cho con trai.
Toàn xã hiện có khoảng hơn 120 lò rèn, lúc cao điểm lên đến hơn 200 lò.
Gia đình nào có 2 người khỏe mạnh trở lên là làm nghề. Sản phẩm của làng
nghề gồm hơn 20 loại. Thu nhập từ nghề rèn của nhân dân trong xã khoảng
2 tỷ đồng/năm”.
Không biết rèn là bất tài
Rèn là nghề thủ công truyền thống
đã song hành với sự tồn tại và phát triển của người Nùng An ở đất này.
Nghề rèn đã góp phần tôn vinh bản sắc văn hóa truyền thống của tộc
người, mang đậm dấu ấn làng nghề. Sản phẩm của làng nghề rất phong phú,
có uy tín không chỉ trong phạm vi tỉnh Cao Bằng mà còn có mặt ở nhiều
tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên, thành phố Hà Nội của nước ta cũng
như các huyện biên giới của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Bà Nhan
Thị Minh Thi, Phó Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Cao Bằng, cho biết: Nghề rèn
từ lâu đã được lưu truyền trong truyền thuyết, thơ ca, tín ngưỡng dân
gian. Các gia đình Nùng An đều thờ ông tổ nghề rèn. Vào ngày rằm, mùng 1
âm lịch hàng tháng, bà con làm lễ cúng ông tổ nghề. Vào đêm 30 Tết, các
gia đình cất hết đồ nghề, quét dọn sạch sẽ lò rèn. Để tẩy uế, đồng bào
còn cắm cành lá bưởi lên lò rèn, thắp hương suốt đêm trừ tịch, chờ đón
ông tổ về ăn tết với gia đình, phù hộ cho gia đình một năm mới lò rèn
luôn đỏ lửa, giòn vang tiếng búa, đe. Sáng mùng 1, đồng bào bưng mâm cơm
ra lò rèn cúng ông tổ nghề. Mâm cơm có con gà sống thiến luộc, một cân
thịt heo luộc, một cặp bánh dày, một chục bánh khảo, một chai rượu và
vàng hương.
“Người Nùng An quan niệm con trai trước khi đi hỏi
vợ mà chưa biết rèn là bất tài”, nói rồi anh Chiến cao hứng cất lên câu
hèo phươn: Mầy lếch sạu mầy than/Rạu tú ràn má tăng (Có sắt và có than/Mình mới cùng nhau rèn).
Ông Linh Văn Phù, Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân xã Phúc Sen cho biết: “Nghề rèn mang đến đời sống
khá giả cho người dân xã Phúc Sen, đường bê tông sạch sẽ, phong quang
dẫn đến tận gầm cầu thang mỗi nhà. Cùng với nghề rèn, nhiều ngành nghề
khác cũng phát triển theo. Nhờ đó, năm 2001, xã đã vinh dự được nhà nước
trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới”. |
Theo: saigongiaiphong