Hội làng Triều Khúc (Hà Nội)
Đi tìm thuần Việt
Không phải cho đến bây giờ khi hai từ
"hội nhập” đã thành câu cửa miệng, người Việt mới bàn chuyện giữ gìn hồn
Việt. Từ những năm 1930 - có nghĩa là trước khi Đề cương Văn hóa Việt
Nam ra đời, các văn nghệ sĩ đã bàn chuyện gìn giữ những gì thuộc về
truyền thống. Bài thơ "Chân quê” của nhà thơ Nguyễn Bính là một ví dụ
tiêu biểu nhất. Trong bài thơ ấy, hai từ "Hôm qua” được láy lại nhấn
mạnh chuyện đổi thay của cô gái đã là chuyện quá khứ, nhưng quá khứ ấy
chưa xa, sự đổi thay đó diễn ra chỉ một lần đi tỉnh về càng làm chàng
trai chua xót, đau khổ. Hình ảnh ẩn dụ "Hương đồng gió nội” thể hiện cái
tình quê, hồn quê khá sắc nét. Bài thơ chất chứa niềm lo âu, băn khoăn,
day dứt và dự cảm về những đổi thay nhanh chóng đến đáng sợ của những
gì vốn mang đậm bản sắc quê hương, dân tộc…
Tự bao đời, người Việt chiến đấu chống
giặc ngoại xâm, ngoài việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, còn có một lý do
khác nữa đó là bảo lưu những giá trị văn hóa đã kết tinh ngàn đời của
dân tộc. Điều này đã được các nhà nghiên cứu phân tích và minh chứng.
Người Việt cũng chấp nhận văn hóa ngoại lai từ rất sớm. Và văn hóa của
người Việt cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi các nền văn hóa khác nhau
trên thế giới, từ châu Á, châu Âu, nhưng những gì thuần Việt vẫn khó
trộn lẫn.
Ấy thế, nhưng cái sự lo lắng về sự
nhạt phai bản sắc, nếu tính từ "Chân quê” - có nghĩa là đã được rung
chuông từ cách đây 7, 8 thập kỷ, mới thấy cái dự cảm ấy hoàn toàn đúng
nếu xét ở một vài khía cạnh cụ thể.
Trước hết, theo các chuyên gia văn
hóa, tiếng nói, ngôn ngữ của mỗi quốc gia, dân tộc đều là một thứ tài
sản vô giá với chính quốc gia, dân tộc ấy. Nó là "căn cước văn hóa” của
dân tộc. Mất "căn cước văn hóa”, dân tộc không là gì, không còn gì cả.
Cách đây ngót một thế kỷ, ông chủ bút Nam Phong tạp chí, nhân một dịp
diễn thuyết về thi hào Nguyễn Du và danh tác Truyện Kiều, đã khẳng định:
"Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Và về sau
này, với tình yêu tiếng Việt vô hạn, thi sỹ Lưu Quang Vũ đã viết những
câu thơ dạt dào, đắm đuối: "Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ/ Phá cũi
lồng vời vợi cánh chim bay/ Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay/ Tiếng
trong trẻo như hồn dân tộc Việt/ Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển
mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời…”. (Tiếng Việt)…
Vậy mà đã có một thời gian dài, dư
luận xã hội lên án sự méo mó của ngôn ngữ thuần Việt. Ban đầu nó là sự
pha trộn, phá cách giữa tiếng Việt và tiếng Anh là chủ yếu, còn giờ đây
là sự xâm lấn của ngôn ngữ "Chat”, của ngôn ngữ 9X, 10X… Người trong
cuộc cho đó là chuyện bình thường, nhưng trong con mắt của người nước
ngoài, thì hiện tượng này thật lạ!
Rất nhiều người Việt biết anh Joe -
chàng "công dân Canada - cư dân Việt Nam - du dân quốc tế” sử dụng
tiếng Việt sinh động, chính xác và hấp dẫn hơn không ít bạn trẻ người
Việt. Trong nhiều bài viết bằng tiếng Việt, Joe bảo anh cảm thấy "hốt
hoảng” về ngôn ngữ Việt. Joe hốt hoảng cho các bạn trẻ Việt, khi họ cả
cố tình lẫn vô ý bỏ qua những cơ hội trau dồi, yêu thương tiếng mẹ đẻ
của mình. Chả lẽ lại không có gì khiến chúng ta động lòng hoặc băn khoăn
khi đứng trước mình là một người nước ngoài tỏ ra am hiểu tiếng Việt,
nói tiếng Việt như ngôn ngữ thứ 2, và kêu gọi người Việt… hãy giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt.
Vậy đi tìm thuần Việt ở đâu? Câu trả
lời không dễ. Phong tục và tập quán nay cũng đã mai một; lễ hội hay hội
làng đã dần dịch chuyển sang xu thế thương mại hóa… Phụ nữ xưa ăn mặc
kín đáo là thế, mà nay ra đường không ít chị em chỉ thích phô bày thân
thể. Mọi giá trị sống, mọi quan niệm về giá trị truyền thống cũng dần
đổi thay. Nhiều người tỏ ra không mặn mà với hình mẫu gia đình tam tứ
đại đồng đường…
Thậm chí, khi trùng tu di sản văn hóa
vật thể, người ta lại hiểu theo cách phải làm mới di sản. Đối với di sản
phi vật thể, nhất là với di sản đã được vinh danh, việc bảo tồn và thực
hành tại cộng đồng đang là công việc mất rất nhiều công sức. Bởi vẫn có
một bộ phận không nhỏ người dân và nhà chức trách giữ lối tư duy: văn
hóa không "đẻ” ra tiền…
Đình làng Mông Phụ (Đường Lâm, Hà Nội)
Không đến nỗi bi quan…
Nhìn ở một góc khác, chuyên gia di sản
Đặng Văn Bài bảo rằng: "Hồn Việt” chính là những gì đọng lại trong kho
tàng di sản Việt. Theo thống kê, nếu tính từ năm 1993 - có nghĩa là từ
cái mốc quần thể di tích cố đô Huế được vinh danh, và cho đến tháng
12-2013 khi Đờn ca Tài tử Nam Bộ được xướng tên, Việt Nam có tổng cộng
18 di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới. Tất nhiên trong số đó, có những
di sản văn hóa phi vật thể liệt vào diện "bảo vệ khẩn cấp”… Hiện tại,
bộ hồ sơ về Dân ca Ví dặm Nghệ Tĩnh cũng đã được trình lên UNESCO và
đang chờ tin vui trong năm 2014.
Ông Bài khẳng định rằng: Phải thực sự
đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của UNESCO và phải qua nhiều khâu
kiểm duyệt với những nguyên tắc và yêu cầu chặt chẽ (được bảo tồn nguyên
gốc, được thực hành thường xuyên trong cộng đồng…) thì những di sản văn
hóa của một dân tộc mới trở thành di sản văn hóa chung của nhân loại.
Trong dòng chảy bất biến của thời cuộc, thì việc đòi hỏi tính nguyên bản
của một di sản (kể cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể) không phải
là sự tuyệt đối hóa, mà phải hiểu theo nghĩa "dĩ bất biến, ứng vạn
biến”…
Nhà thiết kế Minh Hạnh cho rằng: "Hồn
Việt” là cái gì đó rất trừu tượng, nhưng cũng là những thứ rất cụ thể.
Hồn Việt là tà áo dài Việt Nam tung bay giữa thủ đô Pari hoa lệ, hay
giữa thành Rome - kinh đô thời trang nước Ý và thế giới… Năm 2013 cũng
là năm thành công trong việc quảng bá thương hiệu áo dài Việt Nam ở nước
ngoài. Hồn Việt là ngôn ngữ Việt được truyền dạy bền bỉ cho các thế hệ
thứ 2, thứ 3 của con em Việt kiều định cư ở nước ngoài. Hồn Việt là tấm
lòng của những người Việt xa quê, là nỗi nhớ tổ tông nguồn cội, nên
người Việt ở nước ngoài mỗi dịp Tết đến, Xuân về đều mong ngóng được về
trở về thắp nén hương lên bàn thờ vua Hùng…
Và cho đến tận bây giờ, người Việt
giữa Mạc Tư Khoa được nghe câu hò Ví dặm, hay giữa trời Âu được nghe
giai điệu Quan họ "Bèo dạt mây trôi”… thì ai cũng thấy nhớ quê rưng rức…
Hồn Việt là kết tinh của mọi giá trị
văn hóa xuyên thời gian. Không ai khác, chính con người tạo dựng nên
những giá trị ấy. PGS.TS Đào Duy Quát cho rằng: Quan niệm về văn hóa ở
thời điểm hiện nay cần phát triển mở rộng hơn nữa theo hướng coi văn hóa
là toàn bộ giá trị vật chất, tinh thần, đó là "thiên nhiên thứ hai” do
con người sáng tạo ra. Vì thế, không nên quá lo lắng với những biểu hiện
xuống cấp đạo đức xã hội hiện nay để rồi bi quan đến độ cực đoan về giá
trị văn hóa truyền thống của người Việt. Điều căn cốt là cần phải xác
định lại nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp văn hóa trong thời kỳ mới là
trực tiếp giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng xây dựng con người Việt Nam về
trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có
bản lĩnh vững vàng… trước những biến đổi của thời cuộc. Trăn trở ấy cũng
là tâm tư chung của những nhà nghiên cứu văn hóa tràn trề tâm huyết.
Theo: daidoanket
|