Ông đồ gàn giữa đất Hà thành
(Ngày đăng: 28/12/2013 Lượt xem: 1022)
Gần
chục năm nay, mỗi dịp Tết đến, xuân về, tại "phố ông đồ" Văn Miếu lại
có một ông già râu tóc bạc phơ với bộ quần áo nâu bạc màu, vừa say sưa
múa bút vừa giảng giải ý nghĩa của từng chữ cho khách thập phương. Ông
là một trong "tứ trụ thư pháp", Tiến sỹ Hán học Cung Khắc Lược.
Lối thư pháp kỳ lạ
Bắt đầu cầm bút lông từ năm 6 tuổi và chưa bao giờ buông bỏ việc cầm
bút, ông có lối viết thư pháp rất lạ. Theo ông, cái khó khi viết thư
pháp là người viết thư pháp phải có một "khí tượng". Ông giải thích,
hiện nay dân mình chỉ nghe hai chữ "khí tượng" qua thông báo thời tiết.
Thời tiết gắn với vũ trụ, với không khí để thở, nhiệt độ, độ ẩm, với
những vụ nổ lớn của đất trời. Thư pháp cũng gần như vậy. Khi cầm cây
bút, người viết phải có khí tượng thế nào đấy thì mới viết được ra những
chữ có thể đập ngay vào mắt, vào tim người xem. Vì vậy, ta mới "cảm"
được chữ, mới thấy có những chữ như chớp xé, mây bay, có những chữ an ủi
ta, làm cho ta mạnh mẽ lên… Khí tượng kết tinh từ tình yêu, thời gian,
cuộc đời, máu huyết hòa tan với truyền thống ông cha của người cầm bút.
Thư pháp gia Cung Khắc Lược.
Cách ông cho chữ cũng rất lạ. Không phải ai đến xin chữ ông cũng cho.
Ông đồ rằng cái này ông bị ảnh hưởng của cha, ông, cụ ông. Ông bảo, thực
tình ông sẵn lòng thôi nhưng nhiều khi không hiểu sao ông không muốn
viết. Có những người đến với ông, ông thành khẩn rằng, người bên cạnh
viết hay hơn, làm ơn sang xin người ấy. "Bởi vì hình như lúc đó có một
cái gì rất lạ. Nếu thành thật thì tôi thấy lúc đó tôi không khoái viết,
hình như không có hứng. Tất nhiên, khi ra phố ông đồ, hưởng không khí
chung của thành phố vào mùa xuân vốn là một cái thú, tôi cũng muốn viết
quá đi chứ. Mặt khác khi cho chữ, người ta cũng biếu mình vài đồng mua
rượu, trà đãi khách, hà tất mình phải không viết? Thế nhưng tôi không
thể viết!". Cũng có những người đến với ông, ông như bị mê đi, gặp người
ta là ông lập tức nói: "Vâng vâng, nói cho tôi nghe đi, cần cái gì?",
ông nghe xong bảo "Ừ, viết được!". Có những lần, ông phải mất hàng tiếng
đồng hồ mà chỉ viết cho người ta một chữ. Không ít người nghĩ ông thế
này thế kia nhưng ông chỉ nghĩ đơn giản trong thư pháp phải có cái giao
cảm giữa người cầm bút và người xin chữ. Có như vậy thì viết chữ ra mới
thấy sướng được. Cũng không phải khách xin chữ nào, ông cho ngay chữ
đấy. Người xin chữ "thọ", ông cho chữ "đầu bạc răng long", có cô bé xin
chữ "học", ông cho chữ "đỗ cao". Ông giải thích, đi học tất phải đỗ, mà
đã đỗ thì phải đỗ cao.
Với ông, thư pháp đẹp không phải là một tờ giấy đẹp, chữ viết đẹp. Giá
trị của bức thư pháp là mối quan hệ hô ứng giữa người cầm bút và người
xin chữ. Thư pháp có hai người ở trong. Đó là cái óc của người cầm bút
và cái tâm hồn, mong muốn của người xin chữ. Ông giải thích "pháp" là
"phép", thư pháp ở một khía cạnh nào đó là phép của chữ. Thư pháp đẹp
phải chứa đựng trong đó sự nhiệm màu.
Niềm vui và nỗi buồn thế thái
Vốn là dòng dõi Tổng đốc Cung Đình Vận, cha làm hương sư, cụ nội, cụ
ngoại, ông nội, ông ngoại đều làm thầy, ngay từ khi còn bé, ông đã được
cha dạy chữ quốc ngữ, tiếng Pháp, được cụ bốn đời dạy chữ Nho, chữ Nôm.
Thời đi học, ông được học con cụ Lê Đại - Từ Long, một yếu nhân của
phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà
Nội, ông là một trong những "khai quốc công thần" của Đại học Sư phạm
Việt Bắc. Ông giỏi tiếng Pháp, thông tiếng Tàu, làu làu nôm Tày, nôm
Dao, nôm Thái… Mấy chục năm ở với người Thượng, ông biết nhiều về bùa
chú và y lý dân tộc. Kiến thức của ông khiến không ít học giả phương Tây
phải nghiêng mình. Chẳng thế mà có người còn bỏ tiền đài thọ cho ông đi
du lịch các nước Châu Âu. Thế nhưng không phải ông không có nỗi buồn
riêng. Ông bảo điều ông rất buồn là bây giờ suốt trong Nam ngoài Bắc,
chữ quốc ngữ ở đâu cũng là chữ của máy tính. Từ chữ "chúc mừng năm mới"
đến các khẩu hiệu của đường phố ngày xuân… chả năm nào khác năm nào.
Điều này không chỉ nhàm chán mà còn là nỗi đau vì sự nghèo nàn. Ông bảo,
bất cứ thứ chữ nào của bất kỳ quốc gia nào đều có thư pháp. Đi nhiều
nước Châu Âu, được chiêm ngưỡng những biển hiệu 500, 600 năm tuổi được
viết bằng thư pháp, ông lặng người đi vì vẻ đẹp của chúng. Vậy mà ở ta
thì…
Có người cho rằng ông là mẫu người thất bại thảm hại của trí thức Hán
học trong thời buổi kinh tế thị trường, tự tạo nỗi khổ, niềm vui và đeo
đẳng nó như một nghiệp chướng nặng nề. Thế nhưng ông lại cho rằng mình
rất hạnh phúc. Ông bảo, ông thấy thú vị vì cái học của ông thực sự có
ích. Thường xuyên đeo bút đi ngao du khắp nơi, từ miền núi cho đến vùng
đồng bằng, đi đâu ông cũng được dân quý mến, tin yêu. Họ mời ông vào
nhà, nhờ ông nói cho họ nghe về tổ tiên của họ, mời ông dùng cơm. Thậm
chí, khi ông đến, nhà nọ còn báo cho nhà kia để mời ông sang. Trong việc
cho chữ đầu năm, ông cũng có niềm vui riêng. Thú nhất là khi được người
ta hồi âm. Ông kể có lần, dù mưa xuân lất phất, nhưng vẫn có gia đình
đưa cả đứa bé chưa ngồi vững đến chào ông vì năm trước ông cho gia đình
hai chữ "mẹ tròn con vuông" và chữ "quý tử", nay đã thành sự thật.
Trong số tứ trụ làng thư pháp Việt gồm "Hòa, Bách, Nguyện, Lược" (Thanh
hoằng khê Lê Xuân Hòa, Lỗ công Nguyễn Văn Bách, Vĩnh nguyên Lại Cao
Nguyện, Nam ba cẩm văn Cung Khắc Lược), nay người đã đi xa, người tuổi
cao sức yếu nên ít xuất hiện nơi công cộng, chỉ còn mình "anh tấn sỹ
Cung Khắc Lược" như cách gọi của chính ông, năm nào cũng ra Văn Miếu
"chém gió", đọc thơ và cho chữ khách thập phương. Ông bảo, chừng nào ông
còn chưa chết thì còn ra Văn Miếu, vì cho chữ là cái thú và niềm sung
sướng nhất cuộc đời ông.
Theo: hanoimoi