Lịch sử du lịch Việt Nam đã thật may mắn vì được đánh dấu từ những năm 90
của thế kỷ trước khi những người nước ngoài đầu tiên đã quyết định xếp đồ vào
vali lên đường khám phá Việt Nam.
Nhưng, nếu người làm du lịch vẫn phát triển, đầu tư
theo thói quen tư duy cũ thì cơ hội chẳng còn nhiều.
1. Năm 2000 nhân dịp tham dự Festival Huế đầu tiên, vì quá tò mò nên tôi đã
đăng ký tham gia tour du lịch thăm làng rau do những người bạn Pháp xây dựng.
Tò mò không phải vì chưa bao giờ nhìn thấy những luống rau xanh, mà bởi nó chả
có gì lạ sao người Tây phải “xoắn” thế.
Khách du lịch nước ngoài tưới rau ở Trà Quế, Hội An.
Tôi được ngồi trên chiếc xích lô kết hoa vàng rạng rỡ, được chở đi dọc những
con đường rợp bóng cây trước khu vực Đại Nội thanh bình, và đến với làng rau
sạch phía trên cổng thành cửa An Hòa.
Đến làng rau xanh, tôi rất ngạc nhiên thú vị khi bắt gặp những chú hề sặc sỡ do
ông Tây cải trang hân hoan chào đón khách thăm những ruộng rau. Và đằng kia là
một nhóm nghệ sĩ đang mô phỏng công việc của một nông dân trồng rau thú vị như
thế nào.
Đó chính là gợi ý đầu tiên cho việc Huế trở thành địa phương đi đầu cả nước về
du lịch xanh. Tuy nhiên, loại hình này khi được chuyển giao công nghệ cho phía
Việt Nam lại chỉ rộ vào những kỳ Festival Huế diễn ra 2 năm một lần và cũng chỉ
diễn ra vài kỳ đầu. Xong xuôi đâu lại vào đó.
2. Mới đây, nhân dịp tham gia Festival Di sản Quảng Nam, một lần nữa sự tò mò
thôi thúc tôi đạp xe 3 km từ khu phố cổ đến thăm làng rau Trà Quế. Tò mò vì
muốn biết làm thế nào mà từ gần 10 năm qua, là địa phương đi sau nhưng TP. Hội
An đã xây dựng thương hiệu du lịch làng rau Trà Quế thành công đến vậy.
Thành công của mô hình này là nhờ vào sự ủng hộ quyết liệt của chính quyền
những ngày đầu làm du lịch: Chi 3 tỷ cho việc chỉnh trang cơ sở hạ tầng, tập
huấn cho nông dân và yêu cầu tất cả các tour du lịch trong địa bàn bắt buộc
phải bổ sung Làng rau Trà Quế vào hành trình tham quan. Nhưng quan trọng nhất là
nông dân phải là người trực tiếp hưởng lợi.
Giờ đây, dù không còn là hành trình “bắt buộc” nhưng làng rau này đã trở thành
điểm đến “tự nguyện” của bất kỳ du khách nào khi đến Quảng Nam. Họ có thể tự
đạp xe (khách sạn nào ở Hội An cũng có xe đạp cho du khách mượn miễn phí) đến
thăm làng rau hoặc đăng ký theo tour.
3. Ngày 01.11.2011, đài truyền hình France 2, Pháp ghi dấu ấn bởi một chương
trình phim tài liệu đạt kỷ lục 7,7 triệu người xem. Đó là chương trình “Hẹn
nhau nơi đất lạ” –một tập phim theo chân ngôi sao bóng bầu dục Frederic
Michalak (trong tình trạng bị bịt mắt - lạ chưa?) tới Việt Nam - một điểm đến
không được báo trước.
Ngôi sao này làm gì ở Việt Nam mà nhiều người quan tâm đến vậy? Lộ hàng, uốn éo
sexy hay phát ngôn gây sốc? Xin thưa, những chiêu bài cũ rích đó có thể mở ra
một con đường huy hoàng vào giới showbiz cho một bà cô nào đó ở Việt Nam nhưng
chắc chắn là cánh cửa đóng sập với bất kỳ một tên tuổi tầm cỡ ở một nước văn
minh như Pháp.
Vậy sức hút của chương trình là gì? – Sự tò mò! Vâng, người Tây vô cùng tò mò
về nét đặc sắc của văn hóa bản địa - thứ mà nhiều người Việt chúng ta còn chưa
coi trọng.
Michalak có 2 tuần sống hòa nhập với cộng đồng người dân tộc ít người Lô Lô đen
ở Cao Bằng. Anh phải tham gia vào tất cả công việc của một người đàn ông Lô Lô
như đi đốn tre để làm hàng rào, đi cấy, cày ruộng, cuốc đất làm nương, tắm cho
trâu, đi bắt lợn làm giống, xuống chợ bán gạo, băm rau nấu cám cho lợn…
Trong hai tuần làm người Lô Lô, Michalak khám phá ra bao giá trị sống mới mà ở
một quốc gia văn minh như Pháp, anh không tìm thấy.
Những giọt nước mắt của một ngôi sao quốc tế khi chia tay những người dân Lô Lô
đen, và một lần nữa, những giọt nước mắt lại rơi khi anh đã ở Pháp, hồi tưởng
lại quãng thời gian vất vả nhưng đẹp đẽ đó.
Những trải nghiệm đó đã khơi dậy mong muốn, khát khao lên đường đến Việt Nam
khám phá những miền đất lạ của biết bao khán giả - những vị khách du lịch tiềm
năng của Việt Nam.
4. Nếu như ở trường hợp của Huế, dù có lợi thế đi trước lại có sẵn tiềm năng to
lớn nhưng do không có sự đồng thuận và ý thức của người dân cùng sự hỗ trợ và
vào cuộc quyết liệt của chính quyền nên Huế đã không thành công như Hội An. Kết
quả là du khách (nhất là người nước ngoài) đến và trở lại Hội An luôn cao hơn
so với Huế.
Như thế thật lãng phí vì cùng với quần thể di tích Cố đô được vinh danh là di
sản thế giới, việc xây dựng mô hình du lịch xanh bền vững giới thiệu những sinh
hoạt văn hóa bản địa nhẽ ra sẽ phải đưa Huế đàng hoàng bước vào bản đồ du lịch
bền vững của thế giới, sánh với Kyoto và Venice - như lời nhận xét của một
chuyên gia du lịch thuộc Hệ thống thế giới Xanh.
Một cảm giác chạnh lòng khi ngồi nếm vị thơm ngon nổi tiếng của rau làng Trà
Quế, Hội An lại nhớ đến rau húng làng Láng oanh liệt một thời của Hà Nội thân yêu.
Nhớ những lần theo mẹ đi từ đầu chợ đến cuối chợ chỉ để tìm mua bằng được mớ
rau húng của làng Láng cho người phố cổ sành miệng. Đến bao giờ chúng ta mới
thực sự nhận ra và biết nâng niu những giá trị văn hóa độc đáo mà một khi đã
mất đi thì không cách gì lấy lại được?
5. Về trường hợp bộ phim tài liệu “Hẹn nhau nơi đất lạ”. Đó là một bài học quý
giá cho ngành du lịch Việt Nam về cách thu hút du lịch. Ngành du lịch Việt Nam
đã phản ứng và tranh thủ cơ hội này thế nào? - Không gì cả!
Lịch sử du lịch Việt Nam (thật may mắn) vì được đánh dấu bằng làn sóng du lịch
người nước ngoài đầu tiên vào những năm 90 của thế kỷ trước. Đó là những vị
khách đã quyết định xếp đồ vào vali lên đường khám phá Việt Nam sau khi xem bộ
phim Đông Dương (Indochine) của đạo diễn người Pháp Régis Wargnier công chiếu
năm 1992. Bộ phim đoạt giải Oscar này kể về một câu chuyện tình éo le với những
hình ảnh tuyệt vời về vịnh Hạ Long.
Cũng giống như trường hợp mới đây, một làn sóng du lịch “ta ba lô” đã được dấy
lên trong giới trẻ khi cộng đồng mạng Việt Nam bất ngờ và ngơ ngẩn trước vẻ đẹp
của chính quê hương mình qua những video clip quảng bá du lịch của một … công
ty Hàn Quốc. Khi nhà báo hỏi đại diện Tổng cục du lịch vì sao chúng ta không
làm được những thước phim hẫp dẫn như thế thì nhận được câu trả lời muôn thuở
là do kinh phí hạn hẹp!!!
Có bao giờ chúng ta thử một lần tò mò tìm hiểu vì sao người ta thành công mà
mình thì không? Vì sao những điều với mình bình thường thế mà người ta lại
thích, qua tay người khác lại thú vị thế? Cái sự “tò mò”, tưởng chừng đơn giản
như sẵn có ở bất kỳ đứa trẻ lên 3 nào, với một bộ máy cồng kềnh lại không đơn
giản. Bởi nó liên quan đến tầm nhìn, vốn văn hóa và tâm huyết của người có
trách nhiệm.
Xu hướng du lịch của thế giới ngày nay là mong muốn khám phá, trải nghiệm màu
sắc văn hóa, thiên nhiên độc đáo mang tính bản địa. Không chỉ thăm quan các di
sản, di tích, du khách nước ngoài thích được tiếp xúc với người dân địa phương
nồng hậu và muốn có những trải nghiệm sống thuần tuý.
Chỉ khi nào người dân được thực sự trực tiếp hưởng lợi từ du lịch thì loại hình
này mới thành công. Chỉ khi đó, những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của
cha ông mới được phát huy toàn diện vì không ai gìn giữ và phát huy những giá
trị đó hiệu quả bằng người dân. Khi đó mỗi người sẽ thực sự trở thành một đại
sứ du lịch. Và trường hợp người dân Làng cổ Đường Lâm trả lại di sản sẽ không
xảy ra.
Do vậy ngành du lịch và chính quyền không nên chỉ chăm chú vào khai thác di sản
mà cần chú ý vào những giá trị đầy tiềm năng sẵn có của du lịch cộng đồng cũng
như lợi ích của người dân. Có như vậy mới hạn chế được việc khai thác thái quá
di sản với tình trạng du lịch đại trà, ăn xổi - một trong những tác nhân làm
tổn hại đến di sản.
Mặc dù tiềm năng có nhiều, nhưng nếu các cấp chính quyền và ngành du lịch vẫn
cứ theo thói quen tư duy cũ, không xác định được hướng đi đúng đắn trong thời
đại cả thế giới đang chuyển mình thì du lịch Việt Nam sẽ còn tiếp tục đánh mất
cơ hội, di sản thì bị tổn hại và người dân thì thiệt thòi.
Theo: VOV.VN