Được ví như "Kim Tự Tháp" của người Mông trên Cao nguyên
đá, dân phượt khắp dải đất hình chữ S vẫn ưu ái gọi nó là "Vạn Lý Trường
Thành" của Việt Nam. Con đèo Mã Pì Lèng (Đồng Văn, Hà Giang) nếu ai đã
một lần chinh phục là thèm, là ước, khát khao được quay lại đó thêm một
lần, nhiều lần nữa.
Mưa trên đỉnh trời
Tôi không phải là một tín đồ của phượt (du lịch bụi bằng xe máy - PV),
nhưng hễ có dịp lang thang lên rẻo cao Tây Bắc là lại muốn tầm một con
ngựa sắt có gắn động cơ hạng không xoàng để khám và và chinh phục những
con đèo. Lâu nay, người ta vẫn kháo nhau rằng, đã đi Tây Bắc mà không
một lần ngồi xe máy vượt dốc đổ đèo, tắm tiên dưới suối, hay ngả lưng,
vắt chân chữ ngũ ven đường mà thả giấc mơ hoa vào mây núi điệp trùng thì
không bao giờ biết đến cái gọi là Tây Bắc của Việt Nam.
Mã Pì Lèng là một trong tứ đại đỉnh đèo của Việt Nam. Bởi thế, lần đầu
tiên đặt chân lên mảnh đất địa đầu của Tổ quốc, tôi đã nghĩ ngay đến đi
xe máy phượt đèo như bao lớp thế hệ trẻ Việt Nam đã làm. Nếu dịch theo
nghĩa đen của tiếng Mông trên Cao nguyên đá thì Mã Pì Lèng là "sống mũi
ngựa". Điều đó cũng có nghĩa là, con đèo cực kỳ hùng vĩ và nguy hiểm,
đến mức ngựa là động vật leo trèo ở mức tốt nhưng khi đi qua đây cũng
phải bạt vía lạc hơi mà dừng chân ngơi nghỉ.
Toàn cảnh đèo Mã Pì Lèng và dòng sông Nho Quế uốn lượn như sợi chỉ phía dưới chân đèo
Không may cho lần đầu chinh phục đèo của tôi lại đúng vào một ngày Hà
Giang chìm trong màn mưa tầm tã. Trước mặt tầm nhìn chỉ đúng 2m, người
đi ngược chiều tránh nhau bằng tiếng còi xe chứ đèn phá sương cũng
không thấm vào đâu. Mưa ở mảnh đất địa đầu Tổ quốc khác nhiều so với
mưa ở đồng bằng.
Mưa luôn kèm theo sương mù khuất tầm nhìn nên hễ mưa là mọi hoạt động
của khách thập phương bị ngừng trệ. Chỉ có người Mông vẫn váy hoa xòe
rực rỡ đi ô, đeo gùi sau lưng và lăm lăm con dao trên tay nhặt nhạnh tất
cả những gì được gọi là sự sống ở trên đá. Họ lẫn vào với biển đá tai
mèo xám xịt, nhọn hoắt.
Vì công việc đã hẹn từ trước nên dù mất gần 3 tiếng đồng hồ bò trên
đoạn đường chừng 20km, với thời tiết mưa sương khuất tầm nhìn, tôi sang
trung tâm huyện Mèo Vạc. Tiếc hùi hụi vì bao nhiêu cái hùng vĩ, hoang
sơ của nơi gian khổ vào bậc nhất Tổ quốc này đã bị mưa làm cho mờ mịt.
Nhưng không chịu khuất phục trước thiên nhiên khắc nghiệt đó, hai ngày
sau, tôi chọn cung đường ngược lại Đồng Văn về TP. Hà Giang để được mục
sở thị cung đèo huyền thoại.
Quả thật, không hổ danh là đệ nhất hùng quan Mã Pì Lèng, con đèo dài
uốn lượn ôm vào các vách núi đá dựng đứng. Dưới vực sâu là dòng sông Nho
Quế xanh mướt. Nhìn vậy thôi nhưng để chạm vào mặt nước xanh rờn ấy,
người ta phải leo bộ sườn núi mất cả ngày.
Hạnh phúc phía sau cung đường huyền thoại
Anh Hoàng Tân, cán bộ văn hóa huyện Đồng Văn cho biết: "Con đèo Mã Pì
Lèng đã mở ra một cuộc đời mới cho người dân hai huyện Đồng Văn và Mèo
Vạc. Đặc biệt, trước khi đường đèo hoàn thành, người Mông ở Mèo Vạc hầu
như bị tách biệt hẳn so với cư dân tỉnh Hà Giang, mặc dù đây là huyện có
diện tích khá rộng và gần như 100% là dân tộc Mông sinh sống.
Nếu để đi từ Mèo Vạc ra phía trung tâm Hà Giang chỉ có con đường duy
nhất là đường bộ xuyên núi có khi mất cả tháng trời. Bây giờ, người dân
có thể đi về trong ngày cũng là ơn Đảng, ơn Bác đã khơi gợi việc mở con
đèo huyền thoại này".
Cũng theo anh Tân, con đường độc đạo kết nối TP. Hà Giang với hai
huyện Đồng Văn, Mèo Vạc dài khoảng gần 200km thực sự là một kỳ tích khi
được hoàn thành. Đặc biệt, 20km vượt đèo Mã Pì Lèng nối hai huyện với
nhau là điều kỳ diệu nhất kết tinh của sức mạnh và ý chí con người.
Con đường hạnh phúc
Người ta phải gọi ngay cho nó một cái tên là "Con đường
hạnh phúc" vì nơi đèo heo hút gió ấy, mỗi bước chân ta qua hôm nay là mồ
hôi, nước mắt của hàng vạn thanh niên xung phong năm xưa đã cảm tử mở
đường. Giờ đây, những người thanh niên ngày nào đã mất dần cùng với tuổi
tác, thời gian. Tấm bia vô hồn giữa đỉnh đèo chỉ gợi lên những con số
mà chưa thấm vào đâu so với những câu chuyện được viết bằng đời thực.
Nhưng có lẽ hẹn một ngày khác để tìm đến họ. Và cho đến khi đặt bút viết
những cảm xúc sau một lần chinh phục và khám phá một trong tứ
đại đỉnh đèo Tây Bắc Việt Nam này, trong tôi vẫn còn nguyên vẹn cái cảm
giác đứng ở đỉnh trời mà thả hồn cho gió cao nguyên lùa vào tận tim
mình, ngắm sông Nho Quế hun hút dưới vực sâu như một sợi chỉ dài, và
những dải mây bồng bềnh như đưa con người lên tiên cảnh.
|
Để làm được con đường này, Đảng và Nhà Nước đã huy động hơn 2.000 nhân
công từ khắp các tỉnh miền Bắc làm trong vòng 6 năm (1959 - 1965).
Riêng đoạn đèo Mã Pì Lèng chỉ khoảng 20km nhưng nhân công phải làm trong
vòng 9 tháng với tất cả lòng quyết tâm, nỗ lực và ý chí sắt đá của con
người.
Để làm đoạn đèo nguy hiểm này, thanh niên xung phong đã phải treo mình
hoàn toàn trên dây giữa các vách đá hiểm trở để thi công. Mọi hoạt động
phá núi, mở đường đều bằng lao động thủ công với những công cụ thô sơ.
Nửa thế kỷ qua đi, con đèo đến nay vẫn sừng sững uốn lượn như con rắn
trườn qua các vách núi đá dựng đứng thách thức với thời gian. Nhiều
người đến đây, đi qua đây, dừng chân ở đỉnh đèo mà trầm trồ thán phục,
không tiếc lời ngợi ca.
Nhưng ít ai biết được rằng con đèo ấy không chỉ là mồ hôi, nước mắt mà
còn thấm máu của cha anh đi trước, là tính mạng gửi lại với vực sâu
biên viễn. Chẳng có con đường nào khi làm xong lại phải dựng ngay một
nghĩa trang để tưởng nhớ những người đã hy sinh lúc mở đường như với
cung đèo huyền thoại này.
Lịch sử đã từng ghi nhận đội quân cảm tử Việt Nam trên những con tàu
không số mỗi lần nhổ neo là một lần các chiến sĩ dành phút mặc niệm để
truy điệu... chính mình. Không nhiều người biết rằng, ở nơi Cao Nguyên
đá chất đá này cũng đã từng có những buổi lễ truy điệu như thế đối với
lực lượng thanh niên xung phong dũng cảm mở đường.
Khi ý nghĩ cứng rắn xuyên qua từng vách núi đá thì mọi huyền thoại đều
được viết, viết một cách trọn vẹn và bi tráng. Chỉ bằng từng cái đục,
khoét từ bàn tay con người tạc vào trong đá, tưởng như là việc không
tưởng nhưng rồi sức người đã biến những sỏi đá kia thành huyền thoại khi
khai mở thành công một con đường.
Theo: Người Đưa Tin