Thật ra Hồ Tây có rất nhiều tên gọi như
là Dâm Đàm - có nghĩa là Đầm mù sương, hay Hồ Kim Ngưu – có nghĩa là Hồ
Trâu Vàng, hay Hồ Xác Cáo, Hồ Lãng Bạc… Còn tên Hồ Tây là xuất phát từ
chỉ chung hồ nằm phía tây bắc của Kinh Thành, gọi mãi thành tên riêng là
Hồ Tây.
Minh Không hòa thượng còn có pháp danh
khác là Không Lộ, là người đức cao trọng vọng và cũng có nhiều phép
thuật, sang Trung Quốc chữa bệnh cho hoàng đế Trung Hoa. Khỏi bệnh, vua
Trung Hoa muốn ban thưởng cho vị đại sư Việt một món quà. Hòa thượng
nói: “Xin bệ hạ cho bần tăng một lượng đồng đen chứa vừa trong cái tay
nải này”. Thuở bấy giờ, nước Việt đang thiếu thốn đồng và sắt. Bao nhiêu
quý kim, vàng bạc, châu báu đã bị người Tàu vơ vét về phương Bắc. Một
ngày kia, sư Không Lộ lên đường sang Trung Quốc, mang theo một cái túi
nhọ. Nhà sư xin yết kiến vua nhà Tống, để quyên một ít kim khí, đựng
trong một túi vải nhỏ đem về đúc thành tượng Phật.
Thấy cái túi vải bé nhỏ của nhà sư, vua
Tống không ngần ngại sai bảo quan hãy đưa sư Không Lộ vào tận kho, chọn
lựa tuỳ thích vàng hay đồng, miễn là chỉ đựng đầy túi thôi. Vừa bước vào
cửa kho, sư Không Lộ trông thấy một con trâu to lớn, đúc toàn bằng vàng
ròng. Trâu vàng lớn hơn cả con trâu thật ngoài đời, đứng nghênh ngang
như muốn canh giữ kho vua. Ở gian chính giữa, có cất giữ một số kim khí
hiếm quý hơn vàng, gọi là đồng đen. Sư Không Lộ bèn giở phép thuật thần
thông, mở cái túi vải nhỏ ra, thâu tóm quá phân nữa số đồng đen trong
kho vàng bạc cuả vua Tống.
Viên quan giữ kho hốt hoảng trước hành
vi thần bí kỳ lạ của nhà sư, bèn bắt nhà sư phải trả lại số đồng đen quý
giá, trả về chỗ cụ Sư Không Lộ nhắc lại cho viên quan Tầu nhớ rằng
chính nhà vua đã cho phép ngài được chọn lấy bất cứ thứ kim loại nào,
miễn là không chứa đầy quá cái túi vải nhỏ bé của ngài.
Khi về nước, ông dùng đồng đen lấy được
đúc thành một cái chuông lớn. Tương truyền số đồng đen còn lại hòa
thượng còn đúc được An Nam Đại Tứ Khí. Chuông đồng đúc xong, khi gióng
lên tiếng kêu xa khắp thiên hạ. Lúc đó, tại cung điện Trung Hoa có tượng
một con trâu đúc bằng vàng rất lớn. Theo truyền thuyết thì đồng đen là
mẹ của vàng, nghe tiếng chuông của mẹ đồng đen gọi, con trâu vàng cựa
mình và phóng sang Đại Việt, nằm phụ phục bên cạnh cái chuông của hòa
thượng Minh Không. Ngài Minh Không giật mình vì cho rằng nếu tiếp tục
gióng chuông thì vàng từ các nước lân bang sẽ tụ về Đại Việt. Ngài bèn
ném cái chuông xuống hồ tây. Tiếng chuông âm vang lần cuối, con trâu
vàng theo mẹ nhảy xuống hồ.
|
Mỗi năm, đến cữ mưa rào mùa hạ, nước Hồ
Tây đầy tràn, thỉnh thoảng các nhà chài đi đánh cá sớm lại trông thấy
trong khói song nổi lên hình quả chuông đen nhánh. Đôi khi trở trời,
nhìn rõ cả chiếc sừng trâu vàng vùng vẫy trên nước. Bởi vậy sinh ra câu
chuyện hoang đường rằng nếu nhà ai đẻ được mười người con trai mà đem
thả xuống Hồ Tây thì kéo được trâu vàng.
Truyền thuyết dân gian biến hóa theo
dòng chảy của cuộc đời, tựu trung Trâu được coi là một con vật thiêng có
khả năng trừ ma quái, bảo vệ dân làng. Tín ngưỡng thờ Trâu Vàng là một
tín ngưỡng tích cực, phù hợp với nguyện vọng cầu mong một cuộc sống yên
ổn của nhân dân xưa. Đền thờ Trâu Vàng bên bờ Hồ Tây là một biểu hiện
vật chất của tín ngưỡng và nguyện vọng đó. Trên bản đồ Hà Nội vẽ năm
1873 vẫn còn ghi địa điểm đền Kim Ngưu ở đầu doi đất Tây Hồ.
Dẫu biết rằng đó chỉ là truyền thuyết
được lưu truyền trong dân gian không có thực song từ trong sâu thẳm
chúng ta vẫn cảm thấy sự linh thiêng và tôn thờ những truyền thuyết đó.
Hồ Tây nói riêng là Hà Nội nói chung luôn là mảnh đất địa linh nhân kiệt
ẩn chứa trong mình biết bao bí ẩn và là niềm tự hào của nhân dân cả
nước.
Xung quanh hồ có nhiều làng cổ truyền
thống mang đậm sắc thái văn hóa dân gian, gắn với tên tuổi nhiều danh
nhân nổi tiếng. Làng Nghi Tàm, quê hương Bà Huyện Thanh Quan, có chùa
Kim Liên với kiến trúc độc đáo; làng Nhật Tân có nghề trồng hoa đào nổi
tiếng, tương truyền là nơi Lạc Thị đời Hồng Bàng sinh ra một bọc trứng
nở thành bảy con rồng. Rồi làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng,
làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh, làng Kẻ Bưởi
có nghề làm giấy cổ truyền và đền Đồng Cổ là nơi bách quan hội thề thời
Lý, làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh nổi tiếng một thời… Đền Quán Thánh ở
góc đường Thanh Niên và đường Quán Thánh, trấn phía Bắc của Kinh thành
Thăng Long. Chùa Trấn Quốc ở phía nam Hồ Tây cũng là một ngôi chùa đẹp,
nổi tiếng ở Hà Nội. Nhiều ngôi chùa, đền là thế, nhưng có lẽ người Hà
Nội, khách du lịch vẫn tìm đến đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc và phủ Tây
Hồ. Người người đến đây chẳng những được thưởng thức nét đẹp kiến trúc
của đền chùa cổ xưa mà còn cầu may, cầu phúc… đông nhất là vào những
ngày rằm, mồng một âm lịch hàng tháng và ngày lễ, Tết. Bên cạnh hồ Tây
là hồ Trúc Bạch, giữa hai hồ là đường Thanh Niên thơ mộng. Trước đây,
đường được gọi tên là Cổ Ngư. Ngoài ra, một số công trình nhà ở mới xây
dựng bên hồ làm cảnh quang thêm đa dạng.
Theo:Thethaovietnam.vn