Cơn mưa xuân “trái mùa” kèm sương mù giữa đông
khiến con đường vào làng cổ Đường Lâm trở lên quạnh quẽ, rét mướt. Đúng như
tên gọi “làng Việt cổ duy nhất còn lại”, Đường Lâm hiện dần lên với hình ảnh
cây đa, cổng làng, sân đình, giếng nước, ao sen, đặc biệt là những ngôi nhà
cổ… tất cả đã cuốn hút du khách ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Cổng
làng Mông Phụ, tọa lạc dưới bóng một cây đa khổng lồ đã 300 tuổi - một biểu trưng
truyền thống đặc sắc của ngôi làng Việt cổ truyền, là cổng làng duy nhất còn
lại ở Đường Lâm. Cổng được thiết kế theo kiểu “Thượng gia hạ môn” - trên là
nhà, dưới là cổng. Theo người dân ở đây,
cổng được xây dựng năm 1833 và nguyên
liệu chính để xây cổng là gỗ,
đá ong, và ngói ri. Dù đã trải qua nhiều biến cố, dù từng thành tố
đơn để có thể bị thay đổi,
nhưng cổng làng Mông
Phụ vẫn bề thế, vững chắc.
Cổng làng
Đi
sâu vào trong làng, theo hương lộ là tới trung tâm của làng. Một khung cảnh làng quê, với
ngõ xóm, đường làng, giếng nước, sân đình, ao
sen và những ngôi nhà cổ xưa - một không
gian sinh hoạt cộng đồng mang đậm bản sắc của một làng thuần nông và dấu ấn
của một nền văn minh lúa nước hiện ra, khiến chúng tôi phải ngỡ ngàng. Quả thực không sai, khi người xưa có câu
sấm truyền “cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Đình ở xứ Đoài rất nổi tiếng, ngoài
Mông Phụ còn có Tây Đằng, Chu Quyến, Thuỵ Phiêu (Ba Vì), Tường Phiêu (Phúc
Thọ).
Đình
làng Mông Phụ tọa lạc trên vị trí cao, giữa
trung tâm của làng. Đình thờ Đức Thánh Tản Viên Sơn, một vị thần được xếp vào
hàng đệ nhất phúc đẳng thần trong tứ bất tử của người Việt. Đình có lối kiến trúc
độc đáo, rất đặc trưng của các ngôi đình cổ còn tồn tại ở Việt Nam như các
bức chạm nghệ thuật, hướng đình, sập gỗ lim, hai giếng nước.Đáng quan tâm nhất là kiến trúc của
tòa Đại Đình được dựng theo kiểu “ba gian hai chái”, sáu hàng chân cột đặt trên
một nền đất thấp, xung quanh chỉ có lan can gỗ kiểu chấn song nên rất thông
thoáng. Mái đình to, bè, hơi võng nhẹ, bờ nóc hơi cong; trên các góc mái được
trang trí bởi các con vật thuộc hàng “tứ linh” như rồng, lân, phượng và hổ,
với những vân xoắn lớn. Những họa tiết trang trí khiến cho mái đình, thân
đình và dưới đất hợp thành một quần thể. Và
điều đặc biệt là sân đình đào thấp hơn so với mặt bằng xung quanh như một
dụng ý để khi mưa xuống nước từ ba phía ào ạt đổ vào, như ẩn ý một mong ước
"nước chảy chỗ trũng", đời sống ấm no sung túc.
Đình làng
Trước
đình làng là 6 con đường toả đi 6 hướng để đến 9 làng khác nhau. Đường Lâm
được hình thành bởi 9 làng, trong đó 5 làng là: Mông Phụ, Đông Sàng, Cam
Thịnh, Đoài Giáp và Cam Lâm liền kề nhau, còn hai làng tách biệt là Phụ Khang
và Văn Miếu. Các làng này gắn kết với nhau với phong tục, tập quán, và tín
ngưỡng hàng ngàn năm nay không hề thay đổi. Sự
kỳ diệu về địa thế và kiến trúc đó khiến cho người làng có thể từ đình đi đến
bất cứ xóm nào trong làng mà không ai trực tiếp quay lưng lại với hướng đình.
Tất cả cho thấy sự tinh tế, khéo léo, công phu của các cụ xưa khi chọn địa thế để xây
dựng đình.
Dạo
quanh trên từng con ngõ nhỏ
của làng Mông Phụ,chúng tôi nghe anh Nguyễn Văn Hùng
- chủ nhân của ngôi nhà cổ nhất (xây dựng năm 1649) ở xóm Sui (Mông Phụ) kể
lại, trần
nhà thường
được các cụ
gác cái thước “lỗ ban”, trên
xà
thường
khắc
niên đại
năm làm nhà;
các bức thùng, vòm cửa là nơi được khắc nhiều hoa văn trang trí tỉ mỉ. Gian
giữa, chiếm nhiều diện tích, là nơi bố trí ban thờ tổ tiên. Gắn liền với đó
là các bộ hoành phi, câu đối, tranh ảnh cổ, các bộ đồ thờ, những kỷ vật của
các bậc tiền nhân, phía dưới đặt bộ phản để ngồi. Ngoài ra, còn có
thêm bộ trường kỷ. Trên bàn hầu như nhà nào cũng có chiếc ấm tích ủ nước chè
xanh mời khách hoặc đôi khi là chiếc điếu bát để hút thuốc lào.
Nhà cổ
“Các chi tiết làm nên" linh hồn" của nhà cổ
gồm có tường đá ong, cổng đá ong, lối đi lát gạch nghiêng, bậu cửa cao và
gian thờ tổ tiên” - anh Hùng cho hay. Các ngôi nhà trong làng đều có
kiểu nội tự - ngoại khách, sân nhà thấp hơn mặt đường, vào những ngày mưa,
nước từ ngoài dồn vào trong sân (tụ thủy sinh tài) rồi mới chảy thoát ra
đường cống. Người làng Mông Phụ kể rằng: "Từ thời cụ tổ đã có đá ong,
loại đá này phải đào từ dưới lòng đất lên, rồi cắt ra thành từng viên, mỗi
viên thường to khoảng 15-40 cm". Năm tháng càng khiến cho đá săn chắc,
cứng cáp cũng như giúp con người Đường Lâm càng thêm tin yêu vào nơi mình đang
trải qua cuộc sống bình dị.
Sau khi được thăm thú ngôi nhà cổ
nhất, được thưởng thức món Chè Lam đặc sản, chúng tôi tiếp tục khám phá vùng
đất linh thiêng này.
Nói
đến văn hóa tín ngưỡng xứ Đoài, không thể không nhắc đến chùa Mía - Đây
là ngôi chùa cổ rất thuần Việtnổi tiếng
từ bao đời nay với kiến trúc “nội công ngoại quốc”, với những pho tượng quý
còn giữ được từ bao trăm năm nay. Hiện trong chùa
còn bảo lưu một hệ thống tượng Phật rất phong phú, đa dạng và vô cùng quý
giá, bao gồm 287 pho và nhiều di vật quý,
trong đó đáng chú ý là 8 pho tượng kim
cương đứng theo các thế võ và tứ diện Bồ Tát ngồi kiết già tay cầm bông sen,
tay bắt quyết được chạm sinh động. Các pho tượng khác được mô phỏng theo tích
nhà Phật trong hang động cũng tinh xảo, sống động.
Chùa Mía
Việc bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa phi vật thể ở Đường Lâm đã tập trung vào các lĩnh vực: Bảo tồn môi
trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên; bảo tồn không gian làng cổ; bảo tồn
không gian nhà cổ; bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể gắn bó mật thiết với di
sản văn hóa vật thể đặc biệt là các di tích tôn giáo, tín ngưỡng; bảo tồn văn
hóa ẩm thực và phong tục tập quán... Tuy nhiên, theo tục lệ xưa của
làng, con gái đi lấy chồng xa phải nộp 1.000 gạch để xây đường làng và những
con đường ấy đã góp phần tạo nên hồn cốt của làng. Nhưng qua thời gian, lệ
xưa không còn, con đường chính của làng dần xuống cấp, đang bị thay thế bởi
lớp bê tông không phù hợp.
Người
dân Đường Lâm rất ý thức về giá trị văn hóa của làng mình để gìn giữ. Họ biết
rõ vẻ đẹp trầm mặc cổ kính của những ngôi nhà cổ đang thu hút khách thập
phương tìm về để nôn nao cùng... quá khứ!
Nguồn:VEN
|