“Ai về Quy Hậu quê
tôi, Nhà nhà nón trắng bao người muốn mua”
Nằm
cách trung tâm thành phố Đồng Hới khoảng 45 km về hướng Bắc. Thôn Quy Hậu-
huyện Lệ Thủy – tỉnh Quảng Bình từ lâu đã nổi tiếng với nghề làm nón lá. Người
Quy Hậu gắn với nghề làm nón chẳng khác gì người An Xá gắn với nghề dệt chiếu,
người Xuân Bồ gắn với nghề đan lát... Có điều nghề đan nón vất vả mà thu nhập
chẳng được là bao. Song ở đó, từ già đến trẻ, từ đàn ông đến đàn bà không ai
chê nghề, bỏ nghề. Và đó là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường....
(Ảnh tư liệu )
Tôi đến với làng quê An Thủy –
Lệ Thủy, từ những ngày đầu hè ,dầu là lần đầu đến đây qua mục đích du lịch về
miền Trung xa xôi , mà tôi chỉ kịp tưởng tượng qua sách vở từ bé giờ, nhưng khi
đến nơi đây, tôi đã có một suy nghĩ hoàn toàn khác , nhất là khi đến với làng
nón này. Song tôi cảm nhận được một điều: Nghề nón Qui Hậu không nơi nào sánh
được bởi con người ở đó họ chăm chút, tỉ mỉ, và coi sản phẩm của mình giống như
một tế bào không thể thiếu trong cơ thể con người. Chứng tỏ người Quy Hậu
họ yêu nghề làm nón biết bao.
Thật
khó xác định nghề nón xuất hiện ở đây từ khi nào, song theo lời các cụ kể
lại: Người đầu tiên đưa nón về làng là hai ông: Nguyễn Văn Duy còn gọi là ông
Bộ Chiêm và ông Đỗ Bá Mỡn gọi là ông thợ Giồng. Hai ông vốn làm nghề thợ may
giỏi rủ nhau đi Ba Đồn (Quảng Trạch ) may thuê. Họ ở lại làng Thổ Ngọa nay là
xã Quảng Thuận – Quảng Trạch. ở đây nghề nón rất sôi động, thu hút tất cả mọi
người. Thấy vậy hai ông trở về quê và rủ thêm ba người bạn cùng đi may, nếu
được học luôn cả nghề nón. Đó là ông Lê Quang Mạc, Nguyễn Văn Tranh, và Nguyễn
Quang Suyền. Cả năm ông vừa học may, vừa học nón. Trong đó có ông Bộ
Chiêm vợ mất đã hai năm, ở làng Thổ Ngọa có bà Nga góa chồng, thế là họ
mai mối cho nhau, đám cưới được tiến hành, ông Bộ Chiêm đưa vợ về làng. Nghề
nón có từ đó.
( Ảnh tư liệu)
Đến nay nón lá Quy Hậu đã có mặt
khắp nơi, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ miền Trung ra nước
bạn. Mỗi ngày có khoảng 1000 chiếc nón từ 914 hộ của làng được các lái
buôn thu gom chở đi khắp các tỉnh thành. Trung bình mỗi cái 10 nghìn đồng, có
cái 20 đến 50 nghìn đồng. Mỗi gia đình thu nhập bình quân trong ngày khoảng 20
nghìn đồng . Tổng thu nhập bình quân hàng năm của làng hơn năm tỉ đồng
tiền bán nón. Một con số không nhỏ phải không các bạn!
Nhìn
những chiếc nón xinh xinh và chắc chắn, ít ai biết được rằng, để làm nên nó, những
người thợ đã bỏ ra khá nhiều công sức và thời gian. Đầu tiên là việc chọn mua
nguyên vật liệu. Lá nón được lấy ở rừng mua về phơi ( sấy) cho lá khô từ màu
xanh chuyển dần sang màu trắng, sau đó người thợ làm nón phải ủi lá ra cho thật
thẳng m à vẫn giữ được độ dẻo và mềm. Vành nón được làm bằng cật nứa vót nhỏ, với
cây mác sắc những bàn tay nhanh nhẹn chuốt từng sợi tre thành những cái nan vành
đếu tăm tắp, tròn trặn và bóng bẩy. Từng cái nan vành được uốn thành vòng rất tròn
, hai đầu tre được kết liền vơí nhau bằng một mối chỉ buộc thật khéo léo. Công đoạn
khó nhất để tạo ra được một chiếc nón là công đoạn chằm, đòi hỏi người thợ phải
thật kiên trì , khéo léo và tỉ mỉ chỉ cần sơ ý một chút là lá nón sẽ bị nhăn và
rách. Vì thế từng tay kim và những sợi chỉ trong suốt , thoăn thoắt cứ đưa lên đưa
xuống làm cho những tấm lá trắng xanh như được dán vào bộ vành bằng một thứ keo
vô hình.
Trước đây người Quy Hậu chỉ sản xuất
một loại nón lá nhưng ngày nay do nhu cầu của thị trường họ sản xuất hai loại
nón ( nón dừa và nón lá ) .
Tuy nghề làm nón thu nhập
không cao nhưng nó tạo ra công ăn việc làm cho người dân Quy Hậu lúc nông nhàn.
Mỗi người một việc như có sự phân công lao động từ trước .
Đặc biệt, từ em nhỏ đến cụ già cũng
không có ai nhàn rỗi. Chính vì vậy tôi thấy học sinh Quy Hậu rất chăm chỉ. Tự
mình có thể làm ra tiền phụ giúp gia đình trang trải trong việc học hành. Đã
thế các em còn học giỏi, chăm ngoan . Là người vui chơi cùng các em trong những
ngày ở lại đây , tôi như cảm nhận rõ hết điều này cái mộc mạc , giản đơn và
đáng để ai một lần đến đây đều trân quý .
Chính từ nơi đây Quy Hậu
đã đón nhận làng văn hóa một trong những tốp đầu của huyện và được UBND tỉnh
tặng bằng khen. Năm 2008 UBND tỉnh Quảng Bình đã công nhận Quy Hậu – làng nón –
làng nghề. Cũng chính vì vậy mà ngày nay nón Quy Hậu đã trở thành chổ
đứng, niềm tin trong sự phát triển kinh tế, văn hóa của cả làng. Tên tuổi của
làng nón Quy Hậu đã được khắp nơi biết đến :
“Từ Hà Nội đến Cần
Thơ
Nón đi trăm ngả nón
chờ em đây
Hỡi ai mua nón thì
mua
Tròn vành bán
nguyệt như vòng tơ duyên”
Là một lữ khách đến Quy Hậu
tôi thật sự cảm thấy tự hào và yêu mến cái nghề truyền thống đó không biết tự
khi nào. Bởi nón lá Quy Hậu đã thực sự làm nên kì tích, niềm vui, niềm vinh dự
cho cả làng. Nón Quy Hậu không chỉ giúp người dân Quy Hậu vững vàng về
kinh tế mà quê hương Quy Hậu đã thực sự kế tục truyền thống tốt đẹp của
lịch sử dân tộc , họ đã biết giữ gìn và phát huy bản sắc, tinh hoa, văn
hóa dân tộc.
Tôi thiết nghĩ rằng: nghề làm nón
không thể giàu được , nhưng tất cả những người dân nơi đây đều có một tình yêu,
niềm đam mê kì lạ với cái nghề truyền thống rất đỗi tự hào của mình.
Minh
Ngọc