"Chỉ thị" của anh làm tôi bất ngờ. Vì ở cương vị như anh, thiếu
gì của ngon vật lạ, sao lại khoái món mắm tép, một món ăn thực "quê"
giữa Hà Nội?
Mắm tép là đặc sản Gia Viễn. Đây là một trong hàng trăm món ăn ngon
của vùng đất cố đô Hoa Lư. Các món ăn ngon lưu truyền hàng nghìn năm đến
ngày nay là thịt dê, cơm cháy, rượu "tiến vua" được lấy từ những giọt
nước trong các vách núi nhỏ xuống, và mắm tép Gia Viễn.
Gia Viễn là huyện chiêm trũng, nên người dân từ lâu có nghề riu tép
và làm mắm tép thơm ngon dân dã, đậm đà tình nghĩa, trở thành thứ đặc
sản độc đáo, nổi tiếng của người dân Ninh Bình.
Để làm được mắm tép "thơm, đỏ như gấc", người thợ chọn loại tép riu
già, có thân tròn, nhỏ con, mầu xanh lam và tép phải tươi. Tép rửa sạch,
vớt ráo nước, sau đó lấy thính gạo rang vàng, giã nhỏ, muối trộn đều
với tép, bỏ vào hũ bịt kín, một tháng sau mới dùng được.
Tôi quen một anh bạn có nghề làm mắm tép từ ba, bốn đời. Vợ anh, chị
Hiền làm mắm tép từ thời con gái. Khi lấy chồng vẫn làm mắm bán. Hũ mắm
tép ĐÃ giúp gia đình anh qua cơn bĩ cực, nuôi ba con ăn học tử tế. Bây
giờ chị Hiền vẫn làm mắm tép, nhưng không bán. Nhiều người đặt hàng, chị
cũng từ chối và chỉ làm vài tạ tép để biếu, tặng những người thân quen
của gia đình nội, ngoại.
Mắm tép chị làm để càng lâu, càng đỏ tươi, bởi tép nguyên liệu được
chị chọn rất kỹ. Mắm tép có thể chấm với thịt lợn ba chỉ luộc, hoặc rang
cùng thịt nạc hay má lợn, ăn không ngấy mà ngược lại, quyện hương vị
càng thêm hấp dẫn.
Còn làng nghề, Ninh Bình cũng thật phong phú. Nào nghề chạm khắc đá
Ninh Vân, Thêu ren Văn Lâm, cói mỹ nghệ Kim Sơn, gốm Bồ Bát,… càng tìm
hiểu mới thấy thú vị biết nhường nào. Hóa ra, làng gốm Bát Tràng lại có
nguồn cội từ Ninh Bình.
Vào thời nhà Lý (1010), khi Lý Thái Tổ dời Hoa Lư về
Thăng Long lập Kinh đô, Thăng Long trở thành trung tâm kinh tế - chính
trị, và nhiều thợ thủ công ở Ninh Bình cũng như các tỉnh khác đến đây
lập nghiệp.
Gia phả các dòng họ lâu đời ở Bát Tràng như họ Lê, Vương, Phạm,
Nguyễn... đều ghi nhận tổ tiên xưa của họ từ Bồ Bát di cư (Bồ Bát gồm Bồ
Xuyên và Bạch Bát). Vào thời Hậu Lê, khoảng cuối thế kỷ 14 - đầu thế kỷ
15 và đầu thời Nguyễn, xã Bồ Xuyên và trang Bạch Bát thuộc tổng Bạch
Bát, huyện Yên Mô, phủ Trường Yên, trấn Thanh Hóa Ngoại. Ngày nay, Bồ
Xuyên và Bạch Bát là hai thôn của xã Yên Thành, huyện Yên Mô,
tỉnh Ninh Bình. Vùng này có loại đất sét trắng thích hợp với nghề làm
gốm. Điều này phù hợp với dấu tích của những lớp đất nung và mảnh gốm
ken dày đặc tìm thấy nhiều nơi tại Yên Thành.
Lặng lẽ bên dòng sông Ngô Đồng là làng nghề thêu Văn Lâm. Thêu Văn
Lâm ra đời chừng 2-3 thế kỷ. Sản phẩm thêu ở thôn có tới hàng nghìn mẫu
mã: tấm trải giường, rèm cửa, khăn, đĩa, đồ trang trí nội thất. Xưa kia,
Văn lâm chỉ thêu mầu, nhưng do nhu cầu phát triển của khách du lịch,
thêu Văn Lâm chuyển sang làm hàng trắng. Hộ gia đình sản xuất để bán sản
phẩm cho khách du lịch hoặc mở kiốt bày bán. Còn doanh nghiệp, sản phẩm
chủ yếu xuất khẩu.
Thôn có bảy doanh nghiệp làm nghề thêu. Các doanh nghiệp không chỉ mở
xưởng sản xuất tại địa phương, mà còn tổ chức gia công, mở nhiều điểm
sản xuất ở xã Ninh Hải (Hoa Lư) hoặc mở tại huyện khác trong tỉnh.
Làng nghề thêu truyền thống Văn Lâm được tỉnh Ninh Bình công nhận năm
2006. Tháng 11-2007, Hiệp hội Làng nghề Việt Nam công nhận Văn Lâm là
một trong 12 làng nghề tiêu biểu của cả nước.
Thôn Văn Lâm làm lễ công nhận nghệ nhân cho cụ Chu Văn Lượng, 84 tuổi; cụ Đinh Văn Uynh, 78 tuổi.
Nhân dân Kim Sơn nói riêng và Ninh Bình nói chung đời đời nhớ ơn
doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ, người cùng nhân dân địa phương khai khẩn
lấn biển cách đây hơn 200 năm. Thuở chưa có công cuộc khai khẩn của
Nguyễn Công Trứ, cây cói nơi đây mọc chen lẫn với sú, vẹt trên các vùng
bãi hoang vu. Cây cói mọc ngoài bãi hoang, có phần ngọn thót lại, phần
gốc to, bè ra ba góc. Loại này chỉ dùng để dệt chiếu thô hay thảm cói.
Làm chiếu cói ở Kim Sơn.
Còn cây cói được trồng và chăm sóc trên đồng ruộng có thân tròn, thon
thả từ gốc đến ngọn, có thể dệt những hàng có cấp như: Chiếu đậu, chiếu
cải, chiếu cờ… xuất khẩu sang các nước châu Âu, châu Mỹ.
Cây cói có chu kỳ sinh trưởng tựa cây lúa. Cói chiêm thu hoạch vào
dịp tháng 5, cói mùa là dịp tháng 10 (âm lịch). Khi hoa cói héo cũng là
lúc hoa vẹt nở trắng trên bãi bồi ven biển mênh mông. Hoa cói mầu nâu,
thả phấn theo gió, lan tỏa khắp vùng là khi vào mùa thu hoạch cói.
Qua hàng trăm năm quai đê lấn biển, Kim Sơn có nhiều bãi sa bồi mênh
mông, là điều kiện để trồng cói, cung cấp nguyên liệu dồi dào để nghề
chế tác cói mỹ nghệ không ngừng phát triển
Trước đây, sản phẩm bằng cói ở Kim Sơn chủ yếu là chiếu cói. Ngày
nay, do nhu cầu tiêu dùng sản phẩm cói đa dạng với nhiều mẫu mã đẹp.
Ngoài mặt hàng chiếu cói còn có thảm, làn, khay, hộp, đĩa, cốc, tách,
mũ, túi xách đều làm từ cói.
Nếu ai đã từng đến thăm nhà thờ đá Phát Diệm, hẳn không khỏi ngỡ
ngàng trước công trình kiến trúc đồ sộ bằng đá. Nhiều người cho rằng
công trình kiến trúc "để đời" có bề dày hàng trăm năm là sản phẩm của
những người thợ đá tài hoa Xuân Vũ.
Làng Xuân Vũ nằm cách TP Ninh Bình khoảng bảy, tám cây số. Nhiều
người cho rằng, nghề chạm đá Xuân Vũ có từ thời vua Đinh - vua Lê. Những
tác phẩm chạm khắc rồng bằng đá, hay phù điêu, hoa văn bằng đá sống
động, công phu tại đền thờ vua Đinh, vua Lê, đền Thái Vi hay bức tranh
Long Sàng là sự minh chứng tay nghề chạm khắc của nghệ nhân đạt trình độ
cao.
Theo lời kể của các nghệ nhân chạm khắc đá ở Xuân Vũ như cụ Đức, cụ
Phong: Xa xưa, thợ chạm khắc đá Xuân Vũ đi khắp nơi, tham gia làm nhiều
sản phẩm tinh xảo ở đền đài, lăng tẩm chùa Hương, đền ông Đùng, bà Đà,
đền Trình, Phủ Giày, đền Đông Hội, Nghinh phong các. Ngoài ra, còn nhiều
công trình ở Campuchia được nước bạn ưa thích.
Các sản phẩm chạm khắc đá ở Xuân Vũ ngày nay khá phong phú như chậu
cảnh, bể cảnh, tượng nghệ thuật, tượng tôn giáo, các bức phù điêu. Làng
nghề Xuân Vũ đang dần hòa nhập cùng kinh tế thị trường, với những sản
phẩm chạm khắc đá tài hoa, tinh xảo, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc
trường tồn giá trị vốn có trong mọi thời đại.
Sẽ là khiếm khuyết nếu không nhắc tới một nghề nổi bật, là niềm tự
hào của mỗi người dân Kim Sơn. Ai đến Ninh Bình cũng muốn thưởng thức
rượu Kim Sơn. Rượu Kim Sơn đã có thương hiệu, đang đề cử kỷ lục "Top 10
đặc sản rượu nổi tiếng nhất Việt Nam".
Rượu được sản xuất từ các làng nghề truyền thống huyện Kim Sơn, Ninh Bình. Rượu
chưng cất từ gạo nếp, men thuốc bắc, nguồn nước giếng khơi tự nhiên,
sản xuất theo bí quyết riêng của người dân địa phương. Rượu có nồng độ
cao, trong tựa nước mưa, bọt tăm rượu to thì độ càng cao.
Trước, rượu đựng trong vò đất, nút lá chuối khô. Thời nay, các
doanh nghiệp đóng rượu vào chai có mẫu mã khá đẹp, gây ấn tượng hấp dẫn
với người tiêu dùng. Rượu Kim Sơn thơm và êm dịu. Rượu càng để lâu càng
thơm ngon, uống không đau đầu và nếu ngâm thuốc bắc hoặc bìm bịp thì như
một thứ thần dược cho người già khi mỗi ngày dùng một, hai chén hạt
mít.
Tôi đồng ý với những nhà nghiên cứu, khi về Ninh Bình nhận xét:
"Cố đô Hoa Lư quả là vùng địa linh. Càng nghiên cứu, càng hấp dẫn như
đi trên con đường thảm gấm."
Theo: nhandan