Cao nguyên đã vào mùa khô. Trời bắt đầu lạnh.
Sau một năm cày ải, nhóm bạn rủ đi chơi mà lần này phải đi về rừng. Có
người đề nghị lên Măng Đen, nghe nói đẹp lắm. Trong số họ, nhiều người
chưa từng đến đó, chỉ nghe. Với tôi, miền cao nguyên này không xa lạ
nhưng bảo đi hết những nơi cần đến thì chưa. Lâu rồi chưa quay về, liền
gật đầu, thì đi…
Đêm ở Măng Đen lửa bập bùng, nhưng sao nhàn nhạt.
|
Lặng lẽ Kon Tum
Con đường 14 từ Pleiku lên Kon Tum ngập trong bụi
trắng. Dễ có đến bốn năm rồi, từ khi chính thức khởi công, đoạn đường
với chiều dài khoảng 50km vẫn chưa đâu vào đâu. Cứ chạy được vài cây số
đường bóng láng lại phải sang số, “bò” trên những ổ voi, ổ trâu. Khách
trên xe lắc qua lắc lại, xương cốt “răng rắc” theo từng vòng quay của
bánh xe.
Phương Quý. Phương Hoà. Vinh Quang. Tân Hương. Đoàn
Kết… Những địa danh vẫn còn đó. Những vườn rau vẫn còn. Nhưng những ngôi
nhà cổ đã biến mất. Thay vào đó, những ngôi nhà lầu hiện ra. Con đường
đá xanh dẫn vào khu làng Bahnar dọc sông Dăk Bla có hàng trăm năm tuổi
giờ không còn nữa. Nghe kể rằng, khi mở đất, người Kinh và người Bahnar
đã mở con đường ven sông, lát bằng đá xanh. Không gian phố hôm nay đổi
thay nhiều quá. Quy luật phát triển là vậy, không thể ép người dân sống
mãi trong những ngôi nhà chật hẹp, thấp lè tè để “giữ hồn phố cổ” trong
khi xung quanh đã mọc lên những ngôi nhà cao tầng, đầy đủ tiện nghi!
Đầu năm ngoái (tháng 2.2013), Kon Tum kỷ niệm 100 năm
thành lập tỉnh. Điều lạ là, dù xa xôi cách trở so với Pleiku và Buôn Ma
Thuột, nhưng vào năm 1892, toà đại lý hành chính Kon Tum, đứng đầu
là cố đạo người Pháp tên Vialleton (còn gọi là cha Truyền), đã
chính thức hoạt động. Còn theo nguồn tài liệu của nhà giáo Trần Duy
Phiên (sống ở Kon Tum từ những năm 1960), giữa thế kỷ 19, triều đình nhà
Nguyễn đã cử đề đốc Võ Chuẩn làm quản đạo Kon Tum. Khi nhậm chức, ông
mang theo binh lính là người xứ Huế, Bình Định lên, lập làng Võ Lâm,
đánh dấu những người Kinh đầu tiên có mặt tại miền Thượng.
Dù đã “lên” thành phố (giữa năm 2009), Kon Tum vẫn là
“phố buồn” như hơn 30 năm trước tôi đã sống. Kon Tum nay hiện đại hơn,
người đông hơn nhưng không giấu được nét lặng lẽ. Ít tiếng còi xe. Càng
không có kẹt xe. Thứ gì ở đây cũng chậm. Kêu một ly càphê, chờ 20 phút
mới thấy mang ra mà dưới đáy ly chưa có giọt nào!
Mới đầu tháng 12 mà dòng sông Dăk Bla (tiếng Bahnar
nghĩa là “dòng sông máu”) muốn cạn khô. Phía bắc sông đã được đắp kè
chống xói lở. Bờ nam vẫn còn đất bồi nhưng cát không còn trắng như ngày
xưa mà cứ nhợt nhạt. Nhìn dòng sông chảy về phía mặt trời lặn, ai đó đã
đặt tên “dòng sông chảy ngược”. Cuồn cuộn nước đỏ vào mùa mưa, hiền lành
và trong veo vào mùa khô, Dăk Bla từng là nguồn cung cấp những loại cá
đặc biệt như cá ngựa, cá luối, cá tràu, chình… Nhưng gần đây, cá ít dần,
ngay cả những quán ăn lớn cũng không dám ghi đặc sản vào thực đơn vì
không có hàng. “Mấy loại cá đó bây giờ ít lắm. Lâu lâu mới có vài ký để
dành cho khách quen. Bây giờ chủ yếu ăn cá nuôi”, nhân viên quán Đồng
Quê trên đường Phan Đình Phùng, nói.
Nói đến đặc sản ở Kon Tum là nhắc đến thú rừng, nhưng
năm năm trở lại đây, không còn quán nào dám treo biển “ở đây có bán thịt
rừng”. Kiểm lâm, công an phát hiện, cầm chắc phá sản. Vậy là chuyển qua
ăn “thú rừng nuôi” như nai, chồn, nhím… bị người Kon Tum chê dở vì thịt
nhão, chẳng mùi vị gì. “Thịt nuôi chỉ để dành bán cho khách thập
phương. Muốn ăn món lạ, có món gỏi lá rừng và gà “đồng bào”. Ăn thử một
lần cho biết”, Kim Phượng về làm dâu xứ này tròn 20 năm, nói. Món gỏi
này năm năm trước tôi đã từng thử. Mùi vị tổng hợp: chua – đắng – bùi
của các loại lá rừng, cộng với vị ngọt của tép đồng, vị béo của nước
chấm được làm từ mẻ… làm mềm môi khách. Lần này, không còn nhiều thời
gian, đành từ chối.
Vì con đường 14 xấu quá nên nhiều người ước ao Kon Tum
có sân bay. Ước thì ước, chắc chẳng bao giờ được vì dân số thành phố Kon
Tum chỉ ngót nghét 170.000 người, đa phần dân nghèo. Mong sao, đoạn
đường Hồ Chí Minh (tên gọi mới của đường 14) nối liền Kon Tum và Pleiku
sớm hoàn tất để khách phương xa đến với mảnh đất này nhiều hơn…
Lãng quên Măng Đen
Tôi tần ngần ở vòng xoay Phan Đình Phùng – Duy Tân. Nếu
đi ngược Phan Đình Phùng về hướng Dăk Tô, sẽ đặt chân đến những địa
danh “máu lửa” trong chiến tranh như đồi Charlie, sân bay Dăk Tô, sân
bay Phượng Hoàng, Tu Mơ Rông... Còn đi hướng Duy Tân sẽ ra quốc lộ 24,
đi Măng Đen, vùng đất được ví von là “Đà Lạt thứ hai”. Tôi quyết định
chọn Duy Tân.
So với đường 14, đường 24 từ Kon Tum đi Măng Đen êm
hơn, thỉnh thoảng mới gặp một vài ổ gà. Với nhiều tài xế lần đầu tiên đi
con đường này vào ban đêm, đoạn đường 12km của đèo Măng Đen là một thử
thách. Mặt đường nhỏ, nhiều “cùi chỏ”, vực sâu là dòng sông Dăk P’Ne,
nhưng sợ nhất là tinh thần “đường ta rộng thênh thang ta chạy” của những
tay xe xứ này…
Măng Đen đêm nay chỉ se lạnh. Theo lời của một nhân
viên khách sạn Hoa Sim, hai hôm nay trời ấm hơn, bữa trước lạnh lắm,
không dám ra đường vào ban đêm. Lửa được đốt lên. Cuộc nhậu bắt đầu. Đêm
nay có hai món ăn mà theo người dân ở đây là đặc sản: heo “đồng bào”
quay và gà “đồng bào” nướng. Ba ghè rượu cần được mang ra nhưng không
phải rượu người Rơ Mâm làm mà của công ty Y Miên tận bên Buôn Ma Thuột
mang qua. Dễ hiểu thôi, từ nhiều năm nay, nhiều dân tộc ở miền cao
nguyên này đã không còn dùng mì, bắp hoặc gạo để làm rượu cần nữa. Họ đã
được chỉ dạy như vậy. Bữa nhậu có đội văn nghệ của người Rơ Mâm múa hát
mua vui. Có chút lạ nhưng sao mà nhạt thếch và vô duyên!
Miếng thịt heo mềm, thơm và ngọt.
Còn thịt gà chắc. Tất cả đều chấm muối ớt. Cả bọn ngấu
nghiến ăn như chưa bao giờ được ăn. Vì đói và ngon. Ăn nửa chừng, những
dĩa cơm ống nứa được dọn ra. Có khúc màu vàng nhưng phần nhiều có màu
trắng, chứng tỏ trình độ nướng chỉ cỡ lớp chồi! Giá mà thịt được nướng
trực tiếp trên than, còn cơm dẻo hơn và vàng đều sẽ là bữa ăn ở rừng
hoàn hảo. Nói đến đặc sản, Măng Đen còn có món cá tầm được nuôi ở chính
vùng đất này với hai món dễ nấu, dễ làm: nướng muối ớt và lẩu.
Măng Đen có diện tích khoảng 100.000ha. Trừ vài trăm
hecta xây dựng nhà ở và đường sá, còn lại là rừng nguyên sinh, đặc biệt
có 4.000ha rừng thông trồng năm 1980. Theo một người dân giải thích,
việc trồng thông là nhằm phủ kín những khu vực giao tranh giữa hai bên.
Những gốc thông trên 30 tuổi giờ đã vững chãi, che khuất những niềm đau
của hai phía và mang lại vẻ đẹp quyến rũ cho mảnh đất này. Cộng với độ
cao khoảng 1.500m, nhiệt độ dao động 15 – 25 độ C, Măng Đen là vùng đất
lý tưởng cho du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng. Từ những năm 2005, nhiều nhà
đầu tư từ TP.HCM đầu tư khách sạn, tu bổ những thắng cảnh với số vốn
hàng ngàn tỉ đồng kèm theo lời cam kết sẽ đi vào hoạt động cuối thập kỷ
trước. Vậy mà đến mãi hôm nay, những ngôi biệt thự, những khách sạn chỉ
xong phần khung… rồi để cho rêu phủ kín. Một “thổ dân” cho biết, hàng
trăm ngôi biệt thự đang trong tình trạng hoang phế như vậy! Có thể khách
ít mà nhà đầu tư không còn mặn mà với Măng Đen. Cũng có thể khủng hoảng
vài năm trước quất qua mà họ kiệt quệ, thiếu vốn để tiếp tục cuộc chơi.
Ngày sau chưa biết ra sao, còn bây giờ Măng Đen đang ở trong vòng tròn
luẩn quẩn. Không có hạ tầng, dù ở mức trung bình, sẽ không có khách đến.
Mà vắng khách, nhà đầu tư sẽ không thể quay vòng vốn và xác lập niềm
tin “chiến lược”.
Ông Dương Tấn, một chuyên gia về quy hoạch, sau khi dạo
quanh một vòng Măng Đen lạnh lùng phán: “Quy hoạch như vậy là ổn. Chỉ
sợ lãnh đạo ở đây vì nôn nóng mà phá nát “hòn ngọc của miền cao nguyên”
này. Bằng mọi cách phải giữ. Phải biết chờ đợi. Nhưng trước hết phải tạo
nhiều cơ hội hơn nữa để thu hút đầu tư”. Khi nghe nói Măng Đen sẽ có
sân bay trực thăng, ông ồ lên thích thú nhưng kịp thời nói thêm: “Không
dễ chút nào đâu. Phải làm sao thu hút khách đến với Kon Tum, sau đó họ
sẽ lên đây”. Theo vị chuyên gia này, trước hết phải dùng ngân sách nhà
nước xây dựng hạ tầng hoàn chỉnh. Nghe ông nói, tôi lại rơi vào vòng
hoang mang luẩn quẩn, trước hết Nhà nước đang thiếu tiền!
Bao giờ Măng Đen sẽ là Đà Lạt thứ hai? Tôi cũng không biết nữa…
Theo: saigontiepthi