Chứa
đựng trong mình cả một giai đoạn lịch sử thông qua các di tích, nét
trầm mặc cổ kính, điệu hát cung đình Huế âm trầm cùng với sông Hương,
núi Ngự… Huế vẫn sừng sững nghiêng mình tồn tại với thời gian
qua sự thăng trầm của lịch sử, với thời gian và sự chống trọ
trong chiến tranh.Tất cả đã tạo nên một Huế mộng mơ và mạnh mẽ rất
đặc trưng và luôn là điểm đến thú vị đối với mọi du khách.
Cố đô Huế mang trong mình vẻ đẹp thanh
bình, yên tĩnh nhưng cũng không kém phần nhộn nhịp, đông đúc. Khắp thành
phố vẫn lưu giữ được những lăng tẩm, đền đài và nhiều nhà vườn có tuổi
đời vài trăm năm tuổi.
Kinh thành Huế
Kiệt tác quần thể di tích Nói đến Huế,
người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền
đài lăng miếu lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự
trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc... Quần
thể di tích này (bao gồm Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành) tiêu
biểu cho những thành tựu về kiến trúc, điêu khắc, thẩm mỹ và sức lao
động sáng tạo của con người Việt Nam trong suốt một thời gian dài.
Kinh thành Huế được khởi công xây dựng
vào đời vua Gia Long và hoàn thành dưới triều vua Minh Mạng, bao gồm các
di tích: Kỳ đài; Quốc Tử Giám; điện Long An; Bảo tàng mỹ thuật cung
đình Huế; đình Phú Xuân; hồ Tịnh Tâm; Tàng thư lâu; Viện Cơ mật - Tam
tòa; đàn Xã Tắc; Cửu vị thần công… là nơi đóng đô của vương triều nhà
Nguyễn trong suốt 140 năm, hiện nay là một trong số các di tích thuộc
quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế
giới.
Hoàng thành bao gồm các di tích Ngọ môn;
điện Thái Hòa và sân Đại Triều Nghi; Triệu Tổ miếu; Hưng Tổ miếu; Thế
Tổ miếu; Thái Tổ miếu; cung Diên Thọ; cung Trường Sanh; Hiển Lâm các;
Cửu đỉnh; điện Phụng Tiên - là khu vực hành chánh tối cao của triều đình
Nguyễn nằm bên trong kinh thành và được giới hạn bởi các vòng tường
thành bên ngoài. Hoàng thành có chức năng bảo vệ các cung điện quan
trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử
Cấm thành - nơi dành riêng cho vua và hoàng gia.
Sông Hương, núi Ngự thơ mộng
Từ xưa đến nay, núi Ngự và sông Hương
luôn là hai thắng cảnh được xếp vào hàng “top” của xứ Huế. Với vẻ đẹp do
tạo hóa ban tặng cùng với sự gắn kết không rời, núi Ngự và sông Hương
đã dần đi vào đời sống văn hóa của cộng đồng người dân địa phương
Vịnh Lăng Cô
Núi Ngự Bình nằm cách bờ nam sông Hương
khoảng 3km thuộc phường An Cựu của thành phố Huế. Đây là một hòn núi tự
nhiên có hình thù độc đáo: hai cánh hai bên đông tây đối xứng với nhau
một cách đều đặn như do bàn tay con người đắp nên và tạo dáng; hai triền
núi ở hai bên lại hơi chìa ra phía trước trông giống như hai cánh tay
đang dang ra phía trước để chào đón một ai đó.
Từ trên không trung nhìn xuống, người ta
thấy hòn núi có dạng hình cánh cung với phần lưng uốn nhẹ về phía nam.
Dọc từ chân núi lên đến đỉnh là hàng thông reo vi vu suốt cả 4 mùa. Đặc
biệt vào mùa thu, trong tiết trời dễ chịu, không khí trong lành, mọi
người thường lên đây để ngắm toàn cảnh thành phố Huế và tận hưởng nhiều
điều thú vị từ thiên nhiên.
Cùng với núi Ngự, sông Hương cũng đã đi
vào thơ ca của biết bao người. Có người từng ví vẻ đẹp của sông Hương
như sông Seine của nước Pháp. Đối với nhiều người, phong cảnh Huế sở dĩ
đẹp là bởi dòng Hương giang… Nước trong vắt, dòng phẳng như tờ, ít khi
có sóng gợn trên mặt, đi thuyền trên sông như đi trong hồ vậy. Huế không
có con sông Hương thì tưởng như cái đẹp của xứ Huế giảm mất nửa phần.
Về đêm, dòng sông Hương trở nên huyền hoặc hơn, ánh đèn điện hắt xuống
dòng sông làm cho mặt nước như được tráng một lớp bạc lung linh.
Khám phá cồn Hến
Cồn Hến là một hòn đảo nhỏ trên sông Hương (đoạn chảy qua thành phố Huế) được hình thành bởi sự bồi đắp của đất và phù sa.
Sử sách xưa không ghi chép cồn Hến xuất
hiện trên sông Hương từ bao giờ nhưng theo một số tài liệu, ban đầu cồn
Hến có tên là “xứ cồn cạn” do hai khe nước ở giữa cồn bị bồi lấp cạn
dần, rất nhiều loài cá tôm đến đây sinh sống. Đêm đến nhiều người tới
đây đánh bắt và đốt đèn đuốc soi sáng cả một vùng nên cồn được gọi là
cồn Soi.
Phá Tam Giang
Cũng bởi sự hình thành cồn do bồi lấp mà
về sau, dân cư ngụ ở đây đã lập nên làng có tên là Bồi Thành. Vào thời
chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725-1738) xây dựng phủ chúa ở Phú Xuân, ông
Huỳnh Tương (người xã Diên Đại, Phú Vang, Thừa Thiên) được coi là người
đầu tiên đến dựng chòi định cư và làm nghề cào hến. Từ đó người ta gọi
là “cồn Hến”.
Cồn Hến nổi tiếng ngay trong chính cái
tên của nó: “Cồn của loài hến”. Được bao bọc bởi sông Hương, nơi đây bốn
mùa cây cối xanh tốt, khí hậu ẩm mát và một điều đặc biệt dù bị khai
thác rất nhiều nhưng khu vực xung quanh không bao giờ hết hến. Hến sông
Hương có rất nhiều loài, nhưng loại ở cồn Hến rất đặc biệt.
Thân nhỏ, kích cỡ chỉ bằng viên bi, có
mùi thơm dễ chịu, ruột hến ăn rất dẻo, hương vị đậm đà. Hến có thể chế
biến thành các món: cơm hến, bún hến, hến xào… Xứ Huế có nhiều món chế
biến từ hến, nhưng hến ở cồn Hến mới thực sự là đặc sản và kích thích sự
tò mò của nhiều người.
Ngoài đặc sản hến, người dân cồn Hến còn
trồng được loại bắp (ngô) rất kỳ lạ ở cuối cồn. Loại ngô này bắp rất
to, các hạt đều tăm tắp, màu trắng, dẻo mềm và có vị thơm đặc biệt. Cứ
dịp lễ, tết người dân cồn Hến thường dâng lên vua chúa hai đặc sản hến
và bắp. Đây được coi là hai món sơn hào hải vị cũng chính là 2 món ăn mà
đôi vợ chồng năm xưa khi đến khai hoang ở vùng đất này đã làm ra.
Theo: thethaovietnam