Chùa Đậu toạ lạc ở cuối làng Gia Phúc, xã
Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, ngoại thành Hà Nội. Chùa thờ bà Đậu hay nữ thần
Pháp Vũ trong hệ thống Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) nên còn
gọi là Pháp Vũ Tự.
Trong quần thể các ngôi
chùa ở Hà Nội, ngoài những ngôi chùa nổi tiếng ở khu vực trung tâm như Trấn Quốc,
Quán Sứ, Quan Thánh, phủ Tây Hồ, ... Hà Nội còn có nhiều ngôi chùa cổ, đều là
nơi lưu giữ chứng tích của sự phát triển Phật Giáo ở Việt Nam, như: chùa Hương,
chùa Tây Phương, chùa Thầy và Chùa Đậu. Tuy nhiên, với chùa Đậu thì có lẽ nhiều
người còn chưa biết tới.
Chùa Đậu.
Chùa Đậu cách trung tâm Hà Nội khoảng 24 km về phía Nam.
Trong cuốn sách bằng đồng có từ thời Sĩ Nhiếp đầu thế kỷ thứ III (năm 200 -
210) hiện còn cất giữ tại Chùa, có ghi rõ sự tích nàng Man Nương và Phật giáo Ấn
Độ du nhập vào Việt Nam. Vì vậy, chùa còn có tên gọi khác là chùa Vua, chùa Bà.
Cũng theo "Sách đồng", chùa Đậu được xây dựng vào thế kỷ thứ 3 sau
công nguyên, cách đây gần 2000 năm. Chùa đã được nhiều đời vua chúa sau đó sửa
chữa, tôn tạo. Sử sách ghi lại, các bậc vua chúa khi đến đây lễ bái, cầu an đều
rất linh ứng nên ngày xưa, chùa Đậu được phong tặng là "Đệ nhất đại danh
lam".
Chùa Đậu được phong tặng
là "Đệ nhất đại danh lam".
Trong cuốn sách bằng
đồng có từ thời Sĩ Nhiếp đầu thế kỷ thứ III (năm 200 - 210) hiện còn cất giữ tại
Chùa, có ghi rõ sự tích nàng Man Nương và Phật giáo Ấn Độ du nhập vào Việt Nam.
Vì vậy, chùa còn có tên gọi khác là chùa Vua, chùa Bà. Cũng theo "Sách đồng",
chùa Đậu được xây dựng vào thế kỷ thứ 3 sau công nguyên, cách đây gần 2000 năm.
Chùa đã được nhiều đời vua chúa sau đó sửa chữa, tôn tạo. Sử sách ghi lại, các
bậc vua chúa khi đến đây lễ bái, cầu an đều rất linh ứng nên ngày xưa, chùa Đậu
được phong tặng là "Đệ nhất đại danh lam".
Chùa Đậu kiến trúc theo kiểu "nội công, ngoại quốc", "tiền Phật,
hậu thánh" theo cấu trúc hệ thống tứ pháp nhà Phật. Nghệ thuật kiến trúc của
chùa có nhiều nét độc đáo, đặc trưng của nền nghệ thuật dân gian hưng thịnh vào
thế kỷ 17. Ngôi chính điện từ đời Lê, mái lợp ngói mũi hài, các cột, xà đều chạm
rồng; những bệ đá chân cột chạm hoa sen, bộ cửa tám cánh đều chạm tứ linh, tứ
quý, sơn son, thếp vàng...
Tam quan chùa đồng thời
là gác chuông hai tầng tám mái.
Năm 1947, những
công trình quý báu này bị thực dân Pháp phá hoại, đốt cháy. Tuy nhiên, vẫn còn
một số điêu khắc giá trị ở gác chuông Tam quan và Hộ tiền đường, chạm trổ tiên
nữ cưỡi rồng, chàng trai cưỡi hổ... rất sống động. Ngoài ra còn có một số đồ thờ
cổ có giá trị như đôi rồng đá (đời Trần), gạch (đời Mạc), sách đồng (đời Lê) và
khánh, chuông… Tam quan chùa đồng thời là gác chuông hai tầng tám mái. Tầng
trên treo quả đại hồng chung đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) đời Tây Sơn.
Tượng La Hán chùa Đậu.
Đặc biệt, chùa Đậu là nơi lưu giữ tượng táng của hai nhà sư Vũ Khắc Minh và Vũ
Khắc Trường, đặt trong hai am thờ phía sau chùa. Ngôi am gạch nơi nhà sư Vũ Khắc
Minh nhập thất vẫn còn khá nguyên vẹn. Tương truyền 2 vị thiền sư Vũ Khắc Minh
và Vũ Khắc Trường là người thôn Gia Phúc, sống vào đầu và giữa thế kỷ XVII, kế
tiếp nhau trụ trì Chùa Đậu. Theo di chúc của các vị thiền sư: "Ta vào nhập
thất 100 ngày tụng kinh niệm Phật, sau đó xác thân sẽ được giữ nguyên". Hết
100 ngày các Phật tử mở cửa am, thấy thiền sư vẫn ngồi theo thế nhập thiền và
có mùi thơm. Qua vài chục năm áo vải bị ẩm, rơi rụng. Khi đó thiền sư chỉ còn
da bọc xương nên các thiện tín đã mặc cho ông một lớp áo bằng sơn ta.
Thi hài của hai
thiền sư là hiện vật lịch sử quý hiếm vì họ đã để lại Toàn thân Xá lợi. Xá lợi
đốt không cháy, ngâm trong nước không tan, không bị không khí, thời gian bào
mòn. Trên thế giới, rất ít các pho tượng để lại Toàn thân Xá lợi ngoài một vài
nơi như Ấn Độ, Tây Tạng, Nhật Bản, Trung Quốc…
Theo: PNO