Trong 6,8 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam năm 2012, chỉ có khoảng
12% khách đến các điểm du lịch tâm linh- con số quá nhỏ so với tiềm
năng.
Du lịch tâm linh ngày càng tăng trưởng mạnh
Việt
Nam có nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển du lịch tâm linh, thể
hiện ở bề dày văn hóa gắn với truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng và sự
đa dạng, phong phú của các thắng tích tôn giáo cũng như số lượng lớn các
tín ngưỡng, lễ hội dân gian được tổ chức quanh năm trên phạm vi cả
nước. Bên cạnh đó, nhu cầu du lịch tâm linh của người Việt Nam đang trở
thành động lực thúc đẩy du lịch tâm linh phát triển.
Hoat
động kinh doanh, đầu tư vào du lịch tâm linh ngày càng mạnh, thể hiện ở
quy mô, tính chất hoạt động của các khu, điểm du lịch tâm linh. Ngày
càng nhiều các điểm du lịch tâm linh ra đời và phát triển tại các địa
phương, vùng miền trên phạm vi cả nước, tiêu biểu như: Đền Hùng (Phú
Thọ), Yên Tử (Quảng Ninh); Chùa Hương (Hà Nội); Phát Diệm (Ninh Bình);
Núi Bà Đen, Thánh Thất Cao Đài (Tây Ninh); Chùa Bái Đính (Ninh Bình);
Miếu Bà Chúa (An Giang); Côn Sơn – Kiếp Bạc (Hải Dương)…
Du
lịch tâm linh của Việt Nam chưa thu hút được nhiều khách quốc tế. Trong
ảnh là vị khách quốc tế hiếm hoi tới thăm chùa Bái Đính, Ninh Bình.
(Ảnh: Ngọc Thành)
Đặc
biệt, du lịch tâm linh gần đây cũng đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng
chung của ngành du lịch. Theo thống kê, năm 2012, du lịch gặt hái thành
quả ấn tượng với 6,8 triệu lượt khách quốc tế, 32,5 triệu lượt khách
nội địa, tổng thu du lịch đạt 160.000 tỷ đồng. Trong số 32,5 triệu lượt
khách nội địa, có khoảng 13,5 triệu lượt khách đến với các điểm du lịch
tâm linh, tương đương 41,5%. Một số điểm du lịch tâm linh tiêu biểu năm
2012 đón một lượng khách lớn như Miếu Bà Chúa Xứ An Giang (3,6 triệu
lượt khách), Chùa Hương (1,5 triệu lượt); Chùa Bái Đính (2,1 triệu
lượt)…
Ông
Nguyễn Văn Tuấn, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch đánh giá: “Số lượng
khách du lịch ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu khách du
lịch, đặc biệt là khách nội địa. Nhu cầu và du lịch tâm linh ngày càng
đa dạng, không chỉ giới hạn trong khuôn khổ hoạt động gắn với tính tôn
giáo mà ngày càng mở rộng tới các hoạt động, sinh hoat tinh thần, tín
ngưỡng cổ truyền của dân tộc và những yếu tố linh thiêng khác. Hoạt động
du lịch tâm linh ngày càng chủ động, có chiều sâu và trở thành nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đại bộ phận người dân”.
Đặc
biệt, sự phát triển của du lịch tâm linh trong thời gian gần đây còn
tạo nên sự thay đổi rõ rệt trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn, từ nông nghiệp sang kết hợp dịch vụ, góp phần cải thiện đời sống
người dân thông qua việc tạo ra công ăn việc làm và thu nhập trực tiếp
từ các dịch vụ phục vụ du lịch. Ví dụ điển hình tại Ninh Bình, ông Trần
Hữu Bình – Phó Chủ tịch UBND tỉnh cho biết, cách đây 10 năm, khu vực Bái
Đính là một vùng đất nghèo nàn, đường đi vào rất khó khăn, người dân
sống lam lũ, thu nhập bấp bênh, không có việc làm. Nhưng
từ khi xây dựng dự án Chùa Bái Đính, du lịch tâm linh phát triển khiến
cho diện mạo cuộc sống của cả khu vực thay đổi. Cuộc sống của người dân
được cải thiện. Hàng chục ngàn người dân đã có việc làm, thu nhập ổn
định từ 4-6 triệu đồng một tháng.
Khách quốc tế ít, chi tiêu thấp
Sở
hữu nhiều tiềm năng để phát triển du lịch tâm linh, song thực tế là các
điểm du lịch tâm linh của Việt Nam mới chỉ thu hút khách nội địa chứ
chưa hấp dẫn được du khách quốc tế. Theo thống kê của ngành du lịch,
trong số 6,8 triệu lượt khách đến Việt Nam năm 2012, ước tính chỉ có
khoảng 12% khách du lịch đến các điểm du lịch tâm linh.
Bên
cạnh đó, thời gian lưu trú trung bình của khách du lịch tại các điểm du
lịch tâm linh còn ngắn, thậm chí khách chỉ lưu lại vài giờ trong ngày.
Theo báo cáo của các Sở VHTTDL, một số điểm đến nổi tiếng hấp dẫn về du
lịch tâm linh của Việt Nam cũng không níu giữ được du khách ở lại lâu
dài, như Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam có số ngày lưu trú trung bình của khách
là 1,3 ngày; Chùa Bái Đính 1 ngày; Yên Tử 0,84 ngày…. Một số điểm như
Đền Trần- Phủ Dầy hay Mỹ Sơn thì số ngày lưu trú trung bình của du khách
còn là số 0 tròn trĩnh.
Thời gian đi du lịch tâm linh của du khách cũng không đều đặn mà tập trung vào dịp cuối năm, đầu năm âm lịch và các thời
điểm diễn lễ hội dân gian trong năm. Theo một doanh nghiệp lữ hành
trong nước cho biết, hiện tại du lịch tâm linh của Việt Nam mang tính
mùa vụ rất cao do đặc thù phong tục tập quán, đặc điểm văn hóa tâm linh
của đất nước là các lễ hội, thói quen đi đền chùa của người dân chủ yếu
tập trung vào những tháng đầu hoặc cuối năm âm lịch. Những thời điểm
khác trong năm hiện cũng có khách tham quan, vãn cảnh, song số lượng
không đông và không đều đặn.
Bên
cạnh đó, theo báo cáo của các Sở VHTTDL, chi tiêu của phần lớn khách du
lịch tại các điểm du lịch tâm linh thường rất khiêm tốn, chủ yếu chi
cho các hoạt động phục vụ tế lễ, cầu nguyện, chiêm bái…, ít phát sinh
chi phí khác. Một số điểm tâm linh thu phí tham quan, còn lại hầu hết
các điểm du lịch tâm linh gắn với tín ngưỡng không thu phí mà chỉ để hòm
công đức để khách tự nguyện đóng góp. Những chi phí cơ bản cho các hoạt
động ăn uống, giải khát, lưu trú qua đêm, lưu niệm, sản vật địa phương…
chiếm một tỷ trọng đáng kể nhưng không lớn do du khách hầu hết viếng
thăm trong thời gian ngắn, ít nghỉ lại qua đêm.
Điều
đáng chú ý là sự phát triển du lịch nói chung và du lịch tâm linh nói
riêng cũng là những nhân tố gây tác động đến môi trường, cảnh quan thiên
nhiên tại các di tích lịch sử, di sản văn hóa…
Theo
đánh giá của bà Dương Bích Hạnh- Trưởng Ban Văn hóa – Văn Phòng UNESCO
Hà Nội, sự gia tăng nhanh chóng số lượng du khách gây nên những áp lực
nghiêm trọng lên các di tích, di sản văn hóa và thiên nhiên. Những di
sản, trong đó bao gồm cả văn hóa và thiên nhiên chưa được chuẩn bị để
phát huy toàn bộ tiềm năng vốn có, dẫn đến kết quả là sản phẩm không có
nhiều khác biệt, chất lượng thấp, trải nghiệm tích cực của khách bị hạn
chế, thời gian lưu trú bị rút ngắn. Đặc biệt, các cộng đồng địa phương
sống trong và xung quanh các khu vực di sản, di tích nhiều nơi vẫn chưa
được hưởng lợi nhiều từ phát triển du lịch.
Trước
thực trạng như vậy, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Văn Tuấn
cho rằng, du lịch tâm lịch ở Việt Nam cần được định hướng phát triển
theo theo quy hoạch bài bản trên cơ sở khai thác những giá trị nổi trội
về cảnh quan thiên nhiên và văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa tín
ngưỡng và tôn giáo Việt Nam. Bên cạnh đó, cần coi việc phát triển du
lịch tâm linh là giải pháp hữu hiệu để phát triển bền vững thông qua
việc tạo công văn việc làm, tăng thu nhập cho cư dân địa phương, tăng
cường hiểu biết, giao lưu văn hóa, tìm hiểu thế giới và tạo động lực bảo
tồn giá trị truyền thống, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc./.
Theo: toquoc