Chùa Hương Đại |
Theo
một số thư tịch cổ, đất làng Hương Đại, thị trấn Thanh Hà ngày nay, là
nơi ghi giữ nhiều dấu ấn lịch sử. Vào thời Trần, trong cuộc kháng chiến
chống xâm lược Nguyên Mông lần thứ ba, năm 1287, vua Trần Nhân Tông đóng
đại bản doanh tại Bình Hà, ngày nay còn lưu lại các địa danh như giếng
Ngự Dội (giếng vua tắm), đống Quan Cư (gò đất quan ở), kho Gạo (kho
lương)... Và rồi, khi Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Trần Anh
Tông, xuất gia tu hành, trở thành Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm,
có thời gian Ngài đã trở lại chùa làng Hương Đại, để thuyết pháp, và đã
đặt tên chữ cho chùa là Minh Khánh tự. Ngài cũng để lại huyết thư tại
chùa, dấu tích còn lại là một tháp nhỏ trước tiền đường mang tên là Lưu
Huyết Thư Tháp. Một chứng tích nữa là văn bia Minh Khánh đại danh lam,
khắc dựng năm Hồng Thuận thứ ba, 1511, có ghi việc vua Trần Nhân Tông
đặt tên cho chùa. Sắc phong của vua Lê năm Vĩnh Khánh thứ ba, 1731, và
sắc phong năm Cảnh Hưng nguyên niên, 1740, còn ghi: “Triều Trần Hoàng
đế, Thiền sư Nhân Tông tu hành, huyết thư lưu ở bài vị”. Trên Ban thờ có
hộp đựng bảo vật là chín hạt màu huyền, có lỗ xỏ như tràng hạt của tăng
sư, tương truyền đó là xá lỵ của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Trong
số 15 bia đá cùng 13 đạo sắc phong của các triều vua Lê và Nguyễn, còn
lưu giữ tại chùa, đều ghi rõ tên chữ Minh Khánh Tự. Vậy nhưng, người dân
gần xa vẫn quen gọi tên chùa theo tên làng là chùa Hương (chùa làng
Hương Đại). Người có chữ còn giải thích rằng, Hương Đại là cái túi đựng
hương thơm. Trải qua hơn 700 năm, chùa được trùng tu, tôn tạo thêm nhiều
lần, nhất là những lần trùng tu ở thế kỷ XVI, XVII, XVIII, XIX, chùa có
quy mô to lớn, gồm tam quan ba tầng, mái chồng diêm, tiền đường, tam
bảo, điện Phật, nhà tổ, giải vũ, nhà tăng, nhà khách... tất cả là 84
gian, trên mặt bằng hơn 10.000m2. Do những giá trị về lịch sử và kiến
trúc, từ năm 1925, Viện Viễn đông Bác cổ Đông Dương đã lập hồ sơ về
chùa, và ngày 16.5.1925, Toàn quyền Đông Dương đã ký văn bản xếp hạng
Minh Khánh Tự. Đây là một trong 4 ngôi chùa của tỉnh Hải Dương được xếp
hạng di tích văn hóa sử - kiến trúc thời kỳ đó.
Năm
1947, thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”, chùa bị dỡ xuống, hệ thống
tượng thờ và các đồ tế tự được đem cất giấu, bảo quản cẩn thận, an toàn
trong những năm binh lửa. Hòa bình, chùa bắt đầu được dựng lại; nhất là
vào những năm 1985 - 1998 thì việc trùng tu, phục dựng chùa thực sự toàn
diện, từ nhà tổ, tiền đường, nhà tăng, điện Phật, tháp Thư... được tạo
dựng theo đúng kiến trúc xưa, như hồ sơ, đồ bản của Viện Viễn đông Bác
cổ còn lưu lại... Đặc biệt, tam quan do những nghệ nhân tài hoa tôn tạo
trên nền móng cổ, hoàn hảo đến mức, khách thập phương vãn cảnh chùa đều
trầm trồ thán phục trước vẻ đẹp của một kiến trúc cổ kính. Toàn cảnh
chùa to lớn, đẹp đẽ và chứa đựng một chiều sâu văn hóa truyền thống,
xứng đáng như 5 thế kỷ trước người xưa đã tạc vào bia đá Minh Khánh đại danh lam. Năm 1990, chùa Diên Khánh đã được Nhà nước xếp hạng Di tích văn hóa - lịch sử.
Như
bao ngôi chùa làng ở xứ Bắc, xứ Đông, Minh Khánh Tự thờ Phật, nhưng đặc
biệt hơn một chút là chùa có tòa Tam bảo thờ Phật hoàng Trần Nhân Tông
với bức tượng Ngài, nhưng không có tượng Pháp Loa và tượng Huyền Quang
như các chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm. Điều đặc biệt này còn được phản
ánh qua các sắc chỉ triều Nguyễn đã ghi rằng, các xã Ngư Đại, Hào Xá,
Xuân An, Bình Hà phụng thờ miếu Hoàng đế Trần Nhân Tông. Thông thường
việc thờ Thánh thường ở các miếu và thờ Phật vốn tại các chùa, nhưng
chùa Minh Khánh đã kết hợp thờ Thánh Trần Nhân Tông và Phật hoàng Trần
Nhân Tông, đó là nét đặc biệt trong tín ngưỡng của dân cư đất Thanh Hà,
xứ Đông.
Lễ hội chùa Minh Khánh hàng
năm thường diễn ra vào tháng 11 âm lịch, tưng bừng nhất là cuộc thi
bánh dầy và thi mâm ngũ quả giữa các giáp trong làng Hương Đại xưa, giữa
các xóm của cụm dân cư Hương Đại, thị trấn Thanh Hà ngày nay. Các mâm
bánh dầy dự thi đều làm từ xôi nếp cái hoa vàng, phải đủ tiêu chuẩn
trong, trắng, mịn và thơm. Còn các mâm ngũ quả đều là hoa trái vườn nhà
gồm vải hoặc nhãn muộn cùng chuối, bưởi, na, đu đủ, dứa, dừa, bày xếp
rất công phu theo các tích: Long - lân khánh hội (Rồng và lân chào mừng lễ hội), Tam long tứ linh (Trên ba con rồng, dưới bốn vật thiêng), Cửu long tranh châu
(Chín con rồng với bảo tháp)... Tất cả các mâm bánh dầy và ngũ quả dự
thi đều dâng lên Phật và Thánh. Mỗi mâm ngũ quả dự thi thường xếp kín
một hương án hoặc một mâm quy (mâm đá đặt lễ trước chùa). Có
thể nói, lễ hội chùa Minh Khánh là một hội thi tài của người dân và thi
sản vật nông nghiệp của làng Hương Đại, Thanh Hà, vùng đất có giống vải
thiều nổi tiếng mà người xưa đã ghi nhận: “vỏ tía cùi trong, thịt như
thủy tinh, như dáng tuyết, ăn vào tưởng như đang thưởng thức thứ rượu
tiên...”.
Theo: daibieunhandan