QUÊ HƯƠNG & DU LỊCH
Nón trắng đơn sơ, mộng trắng trong
(Ngày đăng: 29/07/2013   Lượt xem: 622)

 Là người Việt Nam, không ai trong đời không một lần nhìn thấy gương mặt của bà, của mẹ, của chị, của em, của người con gái mình thương trong vành nón lá. Những chiếc nón từ  lúc trắng tinh màu lá cho đến khi ngả màu thời gian, bao đời nay đã là hình ảnh quen thuộc, thân thiết trong cuộc sống và tâm hồn quê hương Việt Nam. Nghề làm nón lá xuất hiện trên dải đất hình chữ S đã hàng ngàn năm, khi người Việt vừa vung những nhát cuốc lật từng khoảnh đất để gieo trồng cuộc sống, dựng nhà, mở lối, làm nên làng mạc.

Theo nhịp khoan nhặt của vó câu thời gian, người dân chằm(1) những chiếc nón để che nắng che mưa khi làm ruộng, đi thuyền, ra chợ rồi làm nên thư mục nghề nón của nước Nam. Trong những nếp nhà bình lặng, những người phụ nữ giản dị mà rất đỗi khéo léo và cần mẫn mải mê chằm nón sau những giờ trồng lúa, trồng khoai, nấu nướng, chăn lợn, nuôi gà. Những chiếc nón lá không cầu kỳ, phức tạp mà khiến lòng người xao xuyến mỗi khi cầm trên tay, đội lên đầu hoặc nhìn ngắm nón theo ai đi, về trong mỗi sớm, mỗi chiều. Và chiếc nón lá ấy đã hơn một lần neo vào thi ca vẻ đẹp đoan trang, dịu dàng của người con gái như trong câu thơ tràn ngập cảm xúc băn khoăn ý nhị của chàng trai là thi nhân, sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón(2).

    Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng.

Trong mỗi lớp lá, mỗi nuột kim, những người phụ  nữ của làng quê Việt Nam không ngờ rằng họ đang lặng lẽ cắt nghĩa về vẻ đẹp của từng chiếc nón. Chọn lá dừa, lá kè, lá cọ xong họ mang về ủi thật phẳng rồi vót mung, chuốt vành, tỉ mỉ xây từng lớp lá lên khuôn nón, luồn kim từng sợi gấc mỏng mảnh mà chằm hết vành nón này đến vành nón khác, cho đến khi hoàn tất mũi gấc nứt vành cuối cùng.

Đó là nét đẹp được những đôi bàn tay mẫn cảm và tinh tế gom từ những tàu lá dừa miền Nam, những đọt lá kè của núi rừng miền Trung, lá cọ miền Bắc, những cây lồ ô mảnh khảnh, những sợi gấc nhẹ mềm như tơ... Ở mỗi làng nón thường chỉ có một hoặc hai người có thể làm khuôn nón, từ khuôn nón bầu liêu hay nhọn, sâu hay cạn, mười bốn hay mười sáu hoặc mười tám(3) vành bằng gỗ có độ dai thật tốt, họ đã gửi vào đó trọn vẹn lòng kiên nhẫn, sự chăm chỉ và khéo léo của mình. Những chiếc khuôn nón có độ bền rất lâu thường được tính bằng tuổi nghề làm nón của một phụ nữ. Còn nữa, ở những làng nón, một nếp cũ mang ý nghĩa truyền đời là khi người con gái lấy chồng, trong những gì mà cha mẹ của cô cho làm của hồi môn luôn có chiếc khuôn nón. Người con gái đem chiếc khuôn nón ấy theo về nhà chồng như một tặng phẩm của làng quê ruột thịt để cô có thể làm nón cho mẹ, chị và em gái của chồng hoặc gây dựng một làng nón mới. Về sau, con gái của cô lớn khôn, đến lượt mình, cô lại sắm cho con gái một chiếc khuôn nón khác...

Trong mỗi nếp nhà thân thuộc ở những làng nón, khi vừa xong việc đồng áng, nấu chín bữa cơm gia đình, nhắc nhở con trẻ chăm ngoan..., chỉ bằng cái với tay là họ chạm vào lá, vào khuôn, vào vành. Với vài người ngồi bên nhau trong mái hiên nhà ủi lá, bắt vành, xây lớp, xâu kim, nứt vành(4), bỗng chốc đã xuất hiện một thế giới nhỏ, vui lành là nơi ra đời của những chiếc nón mà rồi đây sẽ theo cô học trò nhỏ đến trường trong tà áo dài tha thướt, cùng cô thôn nữ tát nước đầu đình, che mưa nắng cho những bà, những mẹ tần tảo trên ruộng lúa, vườn khoai, bãi bắp, triền sông, nương dâu, chợ quê...

Thế rồi, những chiếc nón bài thơ, nón lá dừa bắt đầu vẻ đẹp có sức lay động hồn người khi làm nên một nét duyên dưới ánh đèn sân khấu. Duyên dáng làm sao dáng hình người con gái đi trong làn nắng của mặt trời lên từ phía nón em nghiêng(5), nét hồn nhiên ấm áp khi hai mái đầu đôi bạn che chung chiếc nón trong cơn mưa chiều bất chợt..., của điệu múa nón thanh thoát trên sân khấu trong các lễ hội văn hóa dân gian... Nghề nón là một nghệ thuật, mỗi chiếc nón là một tác phẩm nghệ thuật. Bởi vậy, những người phụ nữ làm nón cũng là những nghệ sĩ mà mỗi khi chằm nón họ thường hát, hò đối đáp với nhau và trong buổi bình minh tươi mới, êm đềm và rời rợi thanh thản nào đó, họ gọi nhau cùng đi vào ngày hội chằm nón của làng. Đã rất lâu rồi, những chiếc nón lá làm dịu mát bao mái đầu người dân quê, đã tạo nên sức lan xa của nón lá Việt Nam tới các chân trời văn hóa muôn phương với những nét duyên trứ danh như nón Chuông, nón Huế... Dòng chảy bất diệt của nón lá Việt Nam mãi mãi là một trong những cội nguồn và biểu tượng của vẻ đẹp dân tộc cũng là giấc mộng trắng trong của lòng người ở những ngôi làng nón...

Theo: CADN.com.vn

(1): Tên gọi nghề nón ở vùng Bình Trị Thiên cũ

(2): Thơ Trần Quang Long

(3): Các từ ngữ dùng chỉ kiểu dáng và kích cỡ của nón

(4): Các công đoạn làm nón

(5): Thơ Thu Bồn

Ý kiến bạn đọc 0 bình luận
 
Gửi bình luận của bạn
(Bấm vào đây để nhận mã)
Gửi thông tin Nhập lại
 
 
                                

Bản quyền thuộc về:  Công ty cp Giáo dục và Đào tạo Hoàng Gia Quốc Tế
S
Ince 31-08-2010

Ban truyền thông quan hệ quốc tế - Hiệp hội làng nghề Việt Nam     

Phụ trách biên tập : Nhà báo Lê Kim Hoa       

Địa chỉ: T 16 Hàn Việt Tower- 348 Kim Ngưu, Q Hai Bà Trưng, Hà Nội

Văn phòng 1: Tầng 2 Tòa nhà 14a Khu đô thị Định Công - Quận Hoàng Mai _ Hà Nội - văn phòng Lineup

Văn phòng 2: 489 Hoàng Quốc Việt tầng 03                                             

International royal education & training.,jsc                                                

Tel: 024.73046226  Hot line; 0929805137 Viber - zalo :0929805137 

Email: irecvietnam@gmail.com   : facebook: irecvietnam,  


 

7
Đang xem:
72.500.379
Tổng truy cập: