Báo Điện Tử Văn Hóa Doanh Nhân
Tam nông ở ĐBSCL- nhìn từ góc độ phát triển các làng nghề
* Góp phần phát triển nông thôn
Sự hình thành và phát triển các làng
nghề truyền thống ở ĐBSCL đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông thôn
theo hướng giảm nhanh tỷ trong giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản
xuất công nghiệp và dịch vụ nông thôn, góp phần giải quyết việc làm cho nhiều người
lao động ( NLĐ). Sản xuất tại các làng nghề đã tạo ra nhiều mặt hàng có giá trị
kinh tế cao, kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng mỗi năm
; nhiều cơ sở sản xuất
tại một số làng nghề đã bước đầu khẳng định được uy tín chất lượng và thương
hiệu hàng hoá của mình đối với khách hàng trong nước và quốc tế,...
Ở ĐBSCL hiện có nhiều làng nghề
truyền thống đã trở thành nét đặc trưng riêng cho từng địa phương như: An Giang
có làng dệt thổ cẩm, đường thốt nốt; Vĩnh Long có nghề làm gốm; Sóc Trăng có
bánh pía, lạp xưởng; Bến Tre có kẹo dừa, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ làm ra
từ cây dừa
... Các làng nghề thủ công mỹ nghệ ĐBSCL thời gian qua đem lại doanh
thu hàng ngàn tỉ đồng và đem về hàng chục triệu USD thông qua xuất khẩu sản
phẩm đến khoảng 50 nước trên thế giới, đồng thời tạo việc làm cho một lượng lớn
lao động nông nhàn ở nông thôn
. Thu nhập của người lao động tham gia vào các
làng nghề tăng gấp 3-4 lần so với khoản thu nhập mà họ chỉ duy nhất làm nông
nghiệp. Qua so sánh cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo ở các khu vực có làng nghề thấp
hơn khoảng 3 lần so với tỷ lệ hộ nghèo bình quân trong cả nước.
Ngoài ra, trong những năm gần đây
hầu như địa phương nào ở ĐBSCL cũng có nghề làm hàng mỹ nghệ từ nguyên liệu lục
bình, bẹ chuối, lá buông, lác...( mà trước đây được coi là cỏ rác) giải quyết
công ăn việc làm cho hàng chục ngàn người lao động nông thôn
. Thu nhập bình
quân của NLĐ làm hàng mỹ nghệ từ lục bình, bẹ chuối... chỉ 20.000-25.000
đồng/ngày. Tuy nhiên, trong bối cảnh nông thôn đang thiếu việc làm, đây là
khoản thu nhập đáng kể; NLĐ lại có thể tận dụng thời gian nhàn rỗi và hầu như
học nghề rồi ai cũng có thể làm được. Vì vậy, LĐ nông thôn vùng ĐBSCL theo nghề
này khá đông.
Tiêu biểu như: HTX Ngọc Bích (huyện
Mỹ Xuyên, Sóc Trăng) thu hút trên 4.000 lao động ( LĐ ), hàng năm sản xuất hàng
trăm ngàn sản phẩm với trên 200 mặt hàng từ lục bình, bẹ chuối, lác khía... Cơ
sở Vĩnh Thịnh (Tiền Giang) cũng tạo việc làm cho hàng ngàn LĐ
. Số HTX làm hàng
mỹ nghệ từ "cỏ rác" quy mô nhỏ nhưng giải quyết việc làm cho vài trăm
LĐ ở ĐBSCL khá nhiều. Đáng kể nhất là Cty CP sản xuất-kinh doanh XNK Vĩnh Long,
ngoài 1.000 LĐ tại Cty, còn tạo ra việc làm cho khoảng 10.000 LĐ từ các cơ sở
vệ tinh; trong đó riêng Trà Vinh đã có 10 HTX. Tại Vĩnh Long, chỉ ở xã Ngãi Tứ
(huyện Tam Bình) có khoảng 1.000 LĐ theo nghề đan thảm lục bình với thu nhập
gần 1 triệu đồng/người/tháng...Các loại thảm
, dép, bàn ghế, giỏ xách, tủ nhà
bếp... làm từ nguyên liệu "cỏ rác" ở ĐBSCL đã xuất khẩu sang nhiều
thị trường (Hàn Quốc, Nhật Bản, một số quốc gia Châu Âu...)
. Chỉ riêng Cty CP
sản xuất-kinh doanh XNK Vĩnh Long bình quân thu về xấp xỉ 15 triệu USD/năm. Có
những cơ sở sản xuất quy mô nhỏ hơn, kim ngạch xuất khẩu hàng mỹ nghệ cũng đạt
đến vài trăm ngàn USD/năm ...
Tuy nhiên thời gian gần đây, một số
cơ sở làm hàng mỹ nghệ ở An Giang, Tiền Giang... không tìm được đơn hàng hoặc
"đối tác" trả giá quá thấp
. Nếu không kiếm được hợp đồng mới, không
lâu nữa hàng ngàn LĐ nghề này sẽ thiếu hoặc mất việc làm.
* Khó khăn - thách thức
Làng nghề thủ công mỹ nghệ ở
ĐBSCL hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến khó phát triển bền vững.
Nguyên nhân, phần lớn các làng nghề vẫn mang tính tự phát, trình độ sản xuất lạc
hậu. Trên 80% làng nghề không đủ vốn đầu tư đổi mới kỹ thuật, mở rộng quy mô sản
xuất, nên lượng sản phẩm làm ra ít, không đủ cung cấp khi đối tác cần số lượng
lớn, đồng nhất về chủng loại và chất lượng. Một số các làng nghề sản xuất không
ổn định do thiếu nguyên liệu, khoảng 35% số cơ sở ở nông thôn thiếu nguyên liệu
trầm trọng
. Tỉnh Bến Tre có rất nhiều làng nghề như: sản xuất kẹo, bánh tráng Mỹ
Lồng, bánh phồng Sơn Đốc, làm đồ thủ công mỹ nghệ từ dừa, làng làm lu, sản xuất
rượu Phú Lễ, sản xuất chiếu, làng kiềm kéo.... với doanh thu hàng trăm tỉ đồng
mỗi năm (chiếm khoảng 26% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp) và thu hút
trên 20.000 lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Thế nhưng chỉ một số ít nghề như sản
xuất kẹo
, sản xuất chỉ xơ dừa xuất khẩu nhờ chủ cơ sở làm ăn lớn, có vốn và biết
tính xa nên quan tâm đổi mới cải tiến công nghệ để đáp ứng nhu cầu thị trường
trong nước và xuất khẩu.
Cũng
giống như làng nghề ở các tỉnh khác, nhiều cơ sở, doanh nghiệp sản xuất
gốm ở Vĩnh Long thiếu vốn sản xuất, kỹ thuật làm gốm và thông tin thị
trường còn nhiều hạn chế. Dù tỉnh đã thành lập được Hội nghề gốm xuất
khẩu
, nhưng vẫn còn tình trạng các cơ sở chưa phối hợp nhau, còn cạnh
tranh theo kiểu không lành mạnh (như hạ giá bán để lôi kéo khách hàng về
phía mình) làm ảnh hưởng đến những hộ sản xuất khác.
Có một thực tế là hiện nay ở
ĐBSCL số làng ngề sản xuất - kinh doanh ổn định, "ăn nên làm ra"
trong tình hình chưa nhiều. Sau một quá trình hoạt động, nhiều làng nghề rơi
vào tình cảnh lay lắt. Yếu kém chung của nhiều LN là thiếu vốn, thiếu thông
tin
, thiết bị - máy móc lạc hậu và sản phẩm ngày càng khó tìm "đầu
ra" do tính cạnh tranh kém.
Làm thế nào để duy trì sản xuất trong bối cảnh "đầu ra" khó khăn đang
là bài toán khó của nhiều cơ sở sản xuất hàng mỹ nghệ ở ĐBSCL hiện nay. Nếu
không có giải pháp để duy trì và phát triển làng nghề, sẽ dẫn đến LĐ tản mát kiếm
việc khác mưu sinh
, sau này cơ hội làm ăn trở lại khi nền kinh tế ở nhiều nước
phục hồi, thì việc tập hợp lại LĐ có nghề không thể làm được trong ngày một
ngày hai...
* Liên kết phát triển bền vững
Nguyên nhân của các yếu kém trên là do các
làng nghề ở ĐBSCL chưa có sự gắn kết giữa làng nghề, nghệ nhân, thợ thủ công và
các doanh nghiệp trong việc mở rộng qui mô sản xuất, truyền nghề, cung cấp
thông tin thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Kiểu dáng, chất lượng sản phẩm ở các
làng nghề còn kém. Công tác đăng ký thương hiệu quảng bá cải tiến chất lượng
sản phẩm, kiểu dáng công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.
Theo ông Trần Văn Rón, Giám đốc Sở Kế hoạch & Đầu tư Vĩnh Long cho rằng có
4 yếu tố: tài nguyên, lao động, công nghệ và chất xám là những tiêu chí cơ bản
để làng nghề phát triển bền vững trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế
. Thực
tế, nhiều làng nghề bị mất đi hoặc mai một do thiếu đầu tư công nghệ và không
có nguồn lực chất xám chi phối.
Chủ tịch Hội Sinh vật cảnh thị xã Sa Đéc (Đồng Tháp), cho biết: "Để giúp
làng hoa Sa Đéc sớm hội nhập, gần đây Hội đã tạo điều kiện cho hội viên và các
DN, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ hoa kiểng tìm hiểu thị trường, tiếp thị,
quảng bá sản phẩm thông qua các lớp tập huấn, hội thảo khoa học, hội thi, cử
thành viên đi nước ngoài tìm đối tác, mở rộng thị trường tiêu thụ…".
Trao đổi xung quanh vấn đề tìm hướng đi phù hợp và hỗ trợ những làng nghề có
tiềm năng của địa phương phát triển, ông Đỗ Hoàng Vinh - Phó Giám đốc Trung tâm
Khuyến công tỉnh Bến Tre cho biết, hiện nay tỉnh đã trích nguồn ngân sách gần
250 triệu đồng để đầu tư phát triển mở rộng sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ từ
dừa; đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm bánh phồng nếp, mì; đầu tư thiết bị
chuốt cọng dừa, chẻ nang phục vụ sản xuất giỏ xách bằng cọng lá dừa
. Bên cạnh
đó, Bộ Công nghiệp còn giao nhiệm vụ cho Trung tâm thực hiện 3 dự án với kinh
phí 125 triệu đồng, nhằm đào tạo nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
từ cọng lá dừa; xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất chiếu xuất khẩu
và đào tạo thợ giỏi sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ dừa. Ngoài ra,
Bến Tre còn mở lớp đào tạo nghề, thợ giỏi, huấn luyện kỹ năng thiết kế mẫu cho
200 lao động và xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật sản xuất chiếu xuất khẩu,
để sau đó tổ chức nhân rộng ra các địa phương.Còn đối với Sóc Trăng, bước đầu
tỉnh đã có hướng đi phù hợp để giữ gìn và phát huy sản phẩm nổi tiếng bánh pía,
lạp xưởng
. Theo ông Nguyễn Hồng Phi - Giám đốc Trung tâm Khuyến công tỉnh Sóc
Trăng, bánh pía, lạp xưởng Sóc Trăng đang có hướng phát triển tốt và ngày càng
khẳng định được thương hiệu trên thương trường. Các cơ sở sản xuất bánh đã liên
kết lại với nhau thành lập câu lạc bộ và cùng giúp nhau trong sản xuất, thông
tin thị trường. Với chương trình khuyến công, Sở Công nghiệp cũng đã xây dựng
một thương hiệu chung cho sản phẩm bánh pía - lạp xưởng Sóc Trăng, từ đó các
thành viên trong câu lạc bộ sử dụng thương hiệu chung này để tăng tính cạnh
tranh cho sản phẩm. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp trong tỉnh cũng đã đổi mới
trang thiết bị, xây dựng lại nhà xưởng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và xây
dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP. Đây là hướng đầu tư
đúng đắn vì vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ là yếu tố hàng đầu để cạnh tranh trên
thương trường khi hội nhập…
Ông Nguyễn Hữu Phước - Phó Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam cho rằng, làng
nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ ở nước ta nếu muốn phát triển vững chắc
trong bối cảnh hội nhập, cần liên kết lại với nhau
. Đó là xu hướng tất yếu . Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã lập đề án chương trình phát triển
"mỗi làng một nghề" giai đoạn 2006-2015, nhằm tạo ra phong trào rộng
khắp cả nước phát huy lợi thế, tiềm năng của các địa phương về ngành nghề nông
thôn, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Qua đó, thu hút và tạo
ra mối liên kết chặt chẽ hơn giữa nhiều "nhà" như: "nhà nước",
"nhà kinh doanh", "nhà khoa học", "nhà văn hóa",
"nhà thiết kế mỹ thuật", "nhà du lịch"... Trong đó, mối
quan hệ giữa các hộ làm nghề, cơ sở sản xuất với các doanh nghiệp giữ vai trò
chủ đạo của mối liên kết./