Họ đã về đây để xin thánh thần ban cho mình niềm
hạnh phúc được làm cha mẹ. Đây cũng là ngôi đền duy nhất ở Việt Nam thờ
khối đá tự nhiên mang dáng dấp người phụ nữ đang trở dạ.
Khối đá mang hình người phụ nữ trở dạ
Tọa lạc ở lưng chừng núi Ngũ Nhạc nên đền Sinh có địa
thế tương đối cao so với những ngôi đền khác trong vùng. Muốn lên đến
chính điện, du khách phải đi qua một khoảng sân khá rộng được lát bằng
gạch đỏ và khá nhiều bậc thang bằng bê tông cũ kỹ. Đền được thiết kế
theo dạng chữ Vương với 3 gian rõ rệt. Nội cung đền bài trí khá đơn giản
theo mô típ chung của các ngôi đền thờ Mẫu ở miền Bắc. Gian hậu cung
đền chiếm một khoảng không gian khá rộng và đây chính là nơi linh
thiêng, huyền bí nhất. Bất kỳ ai muốn được lễ bái ở gian hậu cung đều
phải được sự đồng ý của ban quản lí đền chứ không được tự ý bước vào.
Một thành viên trong ban quản lí đền cho biết, gian
hậu cung trước đây vốn được giữ nguyên kiểu thiết kế từ đời nhà Nguyễn.
Nghĩa là toàn bộ khối "Thạch Mẫu thiên tạo" (tượng mẹ đá tự nhiên) được
thờ lộ thiên. Tuy nhiên, lo sợ khối "Thạch Mẫu" bị bào mòn bởi mưa gió
nên ban quan lí di tích đã quyết định xây mái và đưa khối "Thạch Mẫu"
vào gian hậu cung.
Quan sát kỹ thì toàn bộ gian hậu cung được phủ kín
bởi một tấm rèm thêu kim tuyến màu vàng, riêng khối đá được "mặc" một
tấm vải đỏ vẫn còn rất mới. Khối đá có hình người phụ nữ đang trong thế
trở dạ được nằm gọn trong gian hậu cung và được chiếu sáng bởi những ánh
đèn màu mờ mờ, ảo ảo. Khối đá này được tạo nên bởi nhiều phiến đá nhỏ
với nhiều hình hài và kích thước khác nhau. Chỗ cao nhất của khối đá ước
chừng khoảng 3m và trải dài ở nhiều góc cạnh không đều. Xung quanh khối
đá vẫn còn rất nhiều những rễ cây cổ thụ bám chặt. Mặt ngoài của khối
đá đã được phủ một lớp sơn bóng pha kim tuyến khá dày. Loại đá tạo nên
khối đá này được người dân gọi là đá nám - một loại đá tương đối phổ
biến ở dãy núi Ngũ Nhạc.
Theo cách giải thích của ông Nguyễn Hữu Bồi (78
tuổi) - thành viên ban khánh tiết của đền thì khối đá tròn nằm ở vị trí
trên cùng của khối "Thạch Mẫu" chính là đầu. Khối đá phía dưới là bầu
ngực. Hai khối đá lớn, dài hai bên là đầu gối. Giữa hai đầu gối có hai
khối đá tượng trưng cửa bát nhã (nơi sinh nở của phụ nữ) và bào thai
đang chào đời. Hai khối đá mé ngoài cùng là bàn chân.
|
Khối "Thạch Mẫu" thời kỳ còn lộ thiên. |
|
Lối lên chính điện đền Sinh. |
Khơi nguồn tục "xin con"
Không có cơ sở thực tế
Theo ông Trần Đình Trung - Phó Chủ tịch UBND xã Lê
Lợi, việc xin con ở đền Sinh đơn thuần là do đức tin. Thực tế, chưa có
bằng chứng cụ thể nào chứng minh được mức độ thành công của các cặp vợ
chồng hiếm muộn tìm về đây cầu tự. Chính vì thế, người dân không nên quá
tin tưởng vào những hiện tượng tâm linh mà bỏ qua sự tiến bộ của y học
hiện đại. |
Ông Bồi cũng cho hay, chính khối
đá này cùng những câu chuyện lưu truyền trong dân gian về đức thánh Phi
Bồng Hạo thiên tướng quân đã khơi nguồn cho một nghi thức tồn tại hàng
trăm năm nay, đó là tục cầu tự (xin con) tại đền Sinh.
Ông Bồi kể: "Nghi thức này xuất hiện từ thế kỷ thứ 6.
Thuở ấy, có vợ chồng ông Chu Danh Thức và bà Hoàng Thị Ba ở trang Phấn
Lôi (xã Thắng Cương, Yên Dũng, Bắc Giang ngày nay) đã ngoài 50 tuổi mà
chưa sinh được một mụn con. Một đêm, ông bà được báo mộng đến miếu gianh
bên trang An Mô (sau này là đền Sinh) mà cầu. Vợ chồng liền sắm lễ vật
sang miếu. Sau khi làm lễ, bước ra đến cửa, vợ chồng thấy một dấu chân.
Bà Ba ướm thử thấy vừa như in, vết chân cũng biến mất. Quả đúng như giấc
mộng, sau khi làm lễ, về nhà bà có mang rồi hạ sinh một cậu con trai
đặt tên là Chu Phúc Uy. Chu Phúc Uy ngay từ khi mới sinh ra đã mặt mũi
khôi ngô, tuấn tú hơn người. Năm 15 - 16 tuổi, Phúc Uy đã văn võ song
toàn. Năm 19 tuổi, ông được vua Lý Nam Đế cử cầm quân đánh giặc Lương.
Thắng giặc, ông được phong làm trấn thủ xứ Hải Dương. Sau, quân giặc lại
kéo sang, ông tử trận bên Việt Yên, Bắc Giang và được lập đền thờ ở đó.
Từ đó, những cặp vợ chồng hiếm muộn lại tìm về đền Sinh để cầu tự, mong
sinh được con cái".
Một cụ ông tên Được (76 tuổi) chuyên viết sớ ở đền
cho hay, hàng năm có hàng trăm cặp vợ chồng từ khắp mọi miền tìm về đền
Sinh để cầu tự. Tất cả các cặp vợ chồng đến đền làm lễ cầu tự đều do
đích thân ông Được viết sớ hoặc làm lễ hộ.
"Ai đến đây viết sớ cầu tự tôi đều ghi chép lại tên
tuổi, địa chỉ và số điện thoại. Trong khoảng 8 năm trở lại đây, các cặp
vợ chồng tìm về đây xin con càng nhiều lên. Xa nhất là An Giang, Long
An và gần nhất là trong tỉnh, huyện. Riêng năm Thìn này, số lượng tăng
lên đột biến. Mới chỉ 9 tháng thôi mà đã có hơn 400 cặp vợ chồng tìm đến
để cầu tự rồi, không biết đến cuối năm thì sẽ thế nào?", ông Được cho
biết.
|
Cận cảnh khối "Thạch Mẫu" trong gian hậu cung sau khi đền được trùng tu. |
|
Nhiều rễ cây cổ thụ bám sâu vào lòng khối "Thạch Mẫu" vẫn được giữ nguyên vẹn. |
Tục lạ
Lễ hội đền Sinh được tổ chức hàng năm từ ngày 6 đến
10 tháng Giêng (âm lịch) và lễ rước tổ chức vào ngày 3/3 (âm lịch).
Thường, vào tối mùng 6, sau khi đội tế nam quan của làng thực hiện xong
lễ cáo yết, xin phép thánh cho dân làng được mở hội thì tiến hành lễ mộc
dục (tắm rửa, lau chùi thần tượng, thần vị, áo mũ và khí tự). Những
người tham gia lễ là những thành viên đội tế, có đạo đức, được dân làng
tin cậy và trong nhà không có tang. Sau khi được giao nhiệm vụ, những
người này áo mũ chỉnh tề cùng nhau lên đền Sinh làm lễ, thắp hương xin
phép Mẫu và đức Thánh cho được hành sự. Nước để tắm rửa thần tượng, thần
vị là nước sạch pha trầm hương hoặc ngũ vị cho thơm. Sau hai lần tắm
bằng nước sạch, lần thứ ba bằng nước ngũ vị hương, thần tượng thần vị
được bao lau nhẹ nhàng bằng khăn bông, tiếp đến là lễ gia quan (thay áo
thánh).
Khi hành sự, mọi người phải có khăn điều bao hàm để
tránh trần khí xông lên thánh cung, không cười nói trong khi làm lễ mà
mang tội bất kính. Sau lễ mộc dục, nước ngũ vị hương được để trong quán
tẩy, mọi người dùng nước xoa lên mặt gọi là "quan chiêm thần huệ" để trừ
bệnh tật; áo thánh thay ra được xé thành mụn nhỏ gọi là khước thánh
chia cho dân.
Một tục khá điển hình trong lễ phẩm dâng cúng ở đền
Sinh là xôi trắng, lợn đen. Xôi phải để nguyên cả mâm to, thịt lợn quay
nguyên cả con. Lợn để tế thần phải là lợn do làng cử một người nuôi thật
cẩn thận từ năm trước gọi là "lợn tuần". Đến lượt giáp nào đăng cai thì
ngay từ khi mới tiếp nhận, giáp đã phải cử người có đức độ đi mua lợn
về nuôi. Trước khi tiến hành công việc này, ông trưởng giáp phải dẫn
người được nuôi lợn lên đền thắp hương xin quẻ âm dương. Nếu được thì
tiến hành, nếu không thì phải cử người khác. Những người được thần chấp
nhận phải là người có đức độ, làm ăn phát đạt, thân thể lành lặn, dân
làng tin cậy, trong nhà không có tang. Lợn cúng thần phải có màu đen, là
giống lợn thịt ngon có dáng mạo đẹp, thân hình cân đối, không mắc bệnh
tật. Có lợn rồi, việc nuôi nấng chăm sóc không đơn giản. Chuồng lợn phải
đặt chỗ khô ráo, sạch sẽ, không được để gần chuồng trâu, hố xí. Phải
thường xuyên làm vệ sinh để trong chuồng không có mùi hôi thối, ẩm ướt.
Thức ăn của lợn phải tinh khiết, phải rửa sạch, nấu chín không để ôi
thiu.
Ba tháng trước khi mở hội, cần phải cho lợn ăn thức
ăn tinh khiết, có thêm cháo gạo để lợn béo đẫy, mượt mà, đảm bảo trọng
lượng cần thiết. Đây là thời kỳ vất vả nhất, lo lắng nhất, đòi hỏi người
nuôi phải hết sức thận trọng vì sắp đến ngày mở hội mà lợn tuần vẫn
chưa đạt tiêu chuẩn thì vạ cả làng. Nếu chẳng may lợn không kịp lớn hoặc
ốm chết thì đó là điều xúi quẩy khôn lường cho cả cộng đồng dù họ có
xoay được một con khác thay thế và mâm cỗ vẫn đầy đủ như thường lệ.
|
Tượng thờ đức thánh Chu Phúc Uy ở gian trung điện. |
Đến giờ đã định, giáp đăng cai lo mổ lợn, đồ xôi, bày
mâm cỗ chu đáo rồi báo cho làng biết để làng cử người xuống tận gia chủ
rước mâm cỗ lên tế thần. Rước cỗ không dùng kiệu gỗ, chỉ cần 4 trai
đinh lành lặn, mạnh khoẻ, áo mũ chỉnh tề xếp thành hai hàng thẳng thắn
giống như chiếc kiệu rồi cùng nhau khiêng mâm đi theo nhịp bước đều đặn,
nhẹ nhàng, chậm rãi.
Lợn tế thần phải để nguyên cả con, lấy hết lòng,
quay vừa chín. Xôi biện cỗ phải thật trắng được đồ bằng thứ nếp thơm
dẻo, không lẫn tẻ, rất đều hạt. Biện mâm lễ tế thần ở lễ hội đền Sinh
xưa kia được xem là một việc lớn, vừa thể hiện lòng hiếu thảo, tôn kính
của dân làng đối với cộng đồng, lại vừa khẳng định tài năng, khéo léo
của con người trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm. Cho nên có
thể nói đây là một dịp thi tài giữa các giáp. Ai làm tốt thì sẽ được
làng thưởng, ai làm xấu thì bị phạt tuỳ theo mức độ, có thể lần sau
không được làm.
Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa, tục thờ Chu Phúc
Uy thực chất là hiện tượng "lịch sử hoá" tục thờ siêu nhiên của người
Việt cổ mang ý nghĩa cầu phồn thịnh, hạnh phúc, no đủ. Nguồn gốc của hệ
tư tưởng tín ngưỡng thờ siêu lực tự nhiên chính là tục thờ Tứ Pháp (Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện - mây, mưa, sấm, chớp), đây là nét
văn hoá đặc trưng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng Đông Nam Á,
cầu mong mưa thuận, gió hoà để mùa màng bội thu. Điều đáng ghi nhận là
dù trải qua rất nhiều biến thiên của thời cuộc nhưng đến nay lễ hội đền
Sinh hàng năm vẫn giữ được những nghi lễ cổ xưa. |