Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) là con trai
thứ bảy của quan Tể tướng- Đại tư đồ Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, quê ở
xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Mẹ
đẻ của Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần, vợ ba của Nguyễn Nghiễm. Bà là con
gái thứ ba của Trần Ôn, một vị quan dưới quyền Nguyễn Nghiễm, người xã
Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, Kinh Bắc (nay là thôn Kim Thiều, xã Hương
Mạc, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Từ mối nhân duyên này, dòng tộc
Nguyễn Du có 7 mối nhân duyên với người Kinh Bắc, trong đó 3 bà phu
nhân, 2 nàng dâu, 2 chàng rể.
Đại thi hào Nguyễn Du là hậu duệ thứ 9 của một
“danh gia, vọng tộc”. Cụ tổ là Trạng nguyên Nguyễn Thiến, quê xã Canh
Hoạch, huyện Thanh Oai (Hà Tây), cháu nội Nam Dương Hầu Nguyễn Nhiệm,
thời Lê Trung Hưng có dự mưu phục lại nhà Mạc, bị thua trận phải giấu
tung tích, về sinh cơ lập nghiệp tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà
Tĩnh, trở thành người khai sáng ra dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền. Thân phụ
Nguyễn Du là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775) và bác ruột là bác sĩ Nguyễn Huệ
.
Nhà thờ họ Trần (quê ngoại Nguyễn Du) tại thôn Kim Thiều, xã Hương Mạc, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Nguyễn Nghiễm làm quan thời Vua Lê - Chúa
Trịnh, lên tới chức Tể tướng, Đại Tư đồ, tước xuân Quận công. Ông có bà
chính thất và á thất là hai chị em ruột Đặng Thị Dương và Đặng Thị
Thuyết (cùng quê Nghi Xuân, Hà Tĩnh) mà vẫn đem lòng yêu thương và cưới
bà Trần Thị Tần (1740-1778) làm trắc thất (vợ ba), người xã Hoa Thiều
(tên Nôm là làng Mấc, nay là thôn Kim Thiều, xã Hương Mạc, huyện Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh).
Ông bà sinh hạ được 4 người con trai, trong đó
con trai thứ hai là Nguyễn Nễ (1761-1805) ba lần đỗ đầu ở các kỳ: Khảo
khóa ở Quốc Tử Giám, kỳ hạch ở huyện Thọ Xương, kỳ thi ở phủ Phụng
Thiên, được người đương thời ngợi ca “Danh ư kinh quốc liên tam tiệp,
khoán tại gia đình hựu nhất tân” (nổi tiếng ở kinh đô với ba lần đỗ đầu,
nếp nhà nay lại một lần đổi mới), thi hương đậu Tứ trường (cử nhân),
thời Tây Sơn được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh, hai lần được Vua Càn
Long và Gia Khánh khen thưởng về văn tài.
Người con thứ ba là Nguyễn Du (1765-1820),
sinh tại quê ngoại (làng Kim Thiều, xã Hương Mạc) và sống những năm
tháng tuổi thơ ở đây. Đến năm 6 tuổi mới về Bích Câu (Thăng Long).
Quê ngoại Nguyễn Du là một làng nghề chạm khắc
gỗ tài hoa, nhiều danh sĩ khoa bảng nối đời phụng sự quốc gia, toàn xã
có 22 tiến sĩ kể từ đời nhà Trần đến thời nhà Nguyễn, theo tộc phả họ
Trần, có ông Trần Phi Nhỡn từng là Thượng thư bộ Hộ, với tước hiệu Đông
các Điện học sĩ, Nhập thị Kinh Điện (vào cung dạy vua). Đó là tổ ngoại
của đại thi hào Nguyễn Du, nơi đây cũng là quê hương Lễ bộ thượng thư
Đàm Thận Huy, hiệu định miếu húy và ngự danh. Dòng dõi “Danh gia vọng
tộc” Tiên Điền hòa quyện với trầm tích một vùng văn hiến xứ Bắc - nơi
ông chào đời và gắn bó suốt thời thơ ấu đã hội tụ, kết tinh tạo nên một
đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, một danh nhân văn hóa thế giới!
Ông đỗ Tam trường lúc 19 tuổi, được bổ làm
Chánh Thư hiệu ở Thái Nguyên năm 1784. Một năm sau thì về quê vợ ở Thái
Bình. Quá 30 tuổi, Nguyễn Du mới ra làm tri huyện ở tỉnh Thái Bình. Rồi
thăng tri phủ Thường Tín (Hà Đông), sau được giữ chức Đông tri viện học
sĩ, được bổ Cai bạ Quảng Bình (1802-1812). Năm 1813 được phong Cần Chánh
điện học sĩ, được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Cuộc đi sứ này đã giúp
ông sưu tập nhiều tài liệu để sáng tác, trong đó có Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm...
Ông có nhiều công trình nghiên cứu và sáng
tác, trong đó Truyện Kiều là một tuyệt tác bất hủ. Năm 1820, khi ông
chuẩn bị đi sứ Trung Quốc thì mắc bệnh đại dịch, mất đột ngột ở tuổi 55.
Người con trai út là Nguyễn Ức (1767-1823) lấy
vợ người làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Gia
Lâm, Hà Nội). Ông có tài về xây dựng, được cử làm Thiêm sự bộ Công,
tước Sóc nhạc hầu, giữ chức Giám đốc coi việc ở Nội tạo phủ, các miếu
điện ở kinh thành Huế đều do ông thiết kế và trông nom xây cất.
Có lẽ
vì cảm phục tài sắc của người con gái xứ Bắc, nên Tể tướng Nguyễn Nghiễm
cưới thêm các bà Nguyễn Thị Xuyên, người xã Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh
Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Giang) và bà Nguyễn Thị Xuân, người Tiên Sơn,
tỉnh Bắc Ninh.
Anh ruột cùng cha, khác mẹ với thi hào Nguyễn
Du là Nguyễn Điều (1740-1786), con bà á thất Đặng Thị Thuyết, tài kiêm
văn võ, được phong tước Điều lạc hầu, trấn thủ Hưng Hóa, có bà vợ hai là
Nguyễn Thị Nguyện, con gái thứ tư của Đạt Võ hầu Nguyễn Gia Ngô, người
xã Liễu Ngạn, huyện Siêu Loại (nay là xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh). Bà Nguyễn Thị Nguyện lại chính là em gái của danh nhân
Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), tác giả của Cung oán ngâm khúc. Đôi uyên ương này đã sinh ra Nguyễn Hành (1771-1824) cùng với chú ruột Nguyễn Du là hai người trong An Nam ngũ tuyệt của thi đàn lúc bấy giờ.
Chị ruột thi hào Nguyễn Du là Nguyễn Thị Diên
kết duyên cùng Vũ Trinh (1759-1828) một trai tài thuộc “danh gia vọng
tộc” họ Vũ ở Xuân Lan, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Ông cũng là một
thi nhân nổi tiếng với tập thơ Nôm Cung oán thi tròn 100 bài và tập truyện Lan trì kiến văn lục.
Năm 1890 được cử đi sứ sang nhà Thanh, về nước được thăng Hình bộ Tả
tham tri, Lai sơn hầu và được cùng Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành
soạn Hoàng Việt luật lệ, thường gọi là Luật Gia long. Mến mộ văn tài của người anh rể nên Vũ Trinh là người đầu tiên được thi hào Nguyễn Du cho đọc và phẩm bình về Truyện Kiều.
Bà vợ thứ 6 của quan Tể tướng cũng sinh được 3
tiểu thư khuê các và đều gửi thân vào nơi lầu son, gác tía, trong đó
người con út là Nguyễn Thị Ninh lại tìm về xứ Bắc, lấy chồng là Vũ
Trạch, người xã Xuân Lâm, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Từ mối lương duyên sâu đậm với miền đất khoa
bảng Kinh Bắc, Đại thi hào Nguyễn Du và gia tộc của ông đã để lại nhiều
dấu ấn văn hóa trên quê hương quan họ. Nhiều di tích lịch sử liên quan
đến Nguyễn Du và gia tộc, đến Truyện Kiều hiện đang được chính
quyền và nhân dân Bắc Ninh quan tâm gìn giữ, phát huy giá trị. Điển hình
là nhà thờ họ Trần thôn Kim Thiều với các kiến trúc thờ tự được xây
theo kiểu “Nội tự, ngoại khách”. Tài liệu quý còn lưu giữ ở đây là cuốn
gia phả bằng chữ Hán cùng nhiều câu đối ca ngợi truyền thống khoa bảng
và gia phong của dòng tộc Trần gia. Nhà thờ gia tộc họ Trần làng Kim
Thiều đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa.
Du khách tham quan di vật của dòng tộc Nguyễn Du trưng bày tại Bảo tàng Bắc Ninh.
Ngôi nhà cổ ở thôn Hưng Phúc, xã Tương Giang,
thị xã Từ Sơn được xem là nhà thờ chi họ Nguyễn Tiên Điền tại Bắc Ninh.
Chính Nguyễn Trừ - con trai Tể tướng Nguyễn Nghiễm, anh trai khác mẹ với
Nguyễn Du đã lập ra chi họ Nguyễn Tiên Điền trên quê hương Bắc Ninh -
Kinh Bắc. Nhà thờ xưa còn bức hoành phi với 4 chữ “Dịch thế thư hương” - nghĩa là: Đời đời vinh quang nhờ văn chương sách vở.
Đặc biệt, tại nhà thờ gia tộc còn lưu giữ được bản Kiều nôm khắc vào
cuối đời Thiệu Trị, đầu thời Vua Tự Đức là một trong những bản Kiều nôm
cổ nhất hiện nay. Ở thôn Hưng Phúc, cùng với nhà thờ họ còn có di tích
mộ tổ họ Nguyễn.
Tại Bắc Ninh còn có nhà thờ gia tộc họ Vũ ở
Ngọc Quan, Lâm Thao, Lương Tài. Đây là dòng họ của Vũ Trinh - chồng bà
Nguyễn Thị Diên là chị ruột của Đại thi hào Nguyễn Du. Vũ Trinh là thi
nhân nổi tiếng với tập Cung oán thi trên 100 bài, cũng là tác giả của bộ Luật Gia Long, ông là người đầu tiên được Nguyễn Du nhờ đọc và bình phẩm kiệt tác Truyện Kiều.
Một di tích liên quan nữa là nhà thờ họ Nguyễn Gia ở làng Liễu Ngạn, xã
Ngũ Thái, Thuận Thành. Đó là dòng họ của bà Nguyễn Thị Nguyện là vợ của
Nguyễn Điều - anh ruột Nguyễn Du.
Ngoài những di sản văn hóa vật thể kể trên, Kinh Bắc - Bắc Ninh còn bảo tồn và phát huy Truyện Kiều với nhiều hình thức phong phú và độc đáo. Các nghệ nhân làng tranh dân gian Đông Hồ đã sáng tác những bộ tranh Truyện Kiều bằng
nghệ thuật hội họa dân gian độc đáo của vùng Kinh Bắc. Các nghệ nhân
dân ca quan họ, trống quân thì vận dụng câu thơ, ý thơ trong Truyện Kiều
để sáng tác thành những làn điệu quan họ, các bài hát trống quân...
Hàng chục bản Kiều nôm cổ được giới nghiên cứu Bắc Ninh sưu tầm, khảo
cứu và phổ biến trong cộng đồng.
Trong dịp kỷ niệm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du, chính quyền và
nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã đầu tư, tu bổ, tôn tạo, góp phần phát huy các
giá trị của di tích, di vật liên quan đến Nguyễn Du và tôn vinh giá trị
nghệ thuật của Truyện Kiều.
Theo: suckhoedoisong.vn