Tỉnh Quảng Nam là
một trong những địa phương có điều kiện phát triển nghề biển với đội ngũ
lao động dồi dào, nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên, số lượng tàu thuyền có
công suất lớn vẫn còn khiêm tốn nên ngư dân chủ yếu hoạt động ở tuyến
lộng và tuyến bờ với các nghề đánh bắt truyền thống nên sản lượng ít,
giá trị kinh tế không cao. Khi Chính phủ có chủ trương thực hiện chính
sách tín dụng, ưu đãi cho ngư dân vay đóng tàu vỏ sắt, ngư dân tỉnh
Quảng Nam phấn khởi vì có điều kiện đóng tàu lớn, vươn khơi xa. Thế
nhưng, bên cạnh niềm vui đã xuất hiện nhiều nỗi lo khác.
Ước tính, mức đầu tư cho những chiếc tàu vỏ sắt cao hơn khoảng 60% so với tàu gỗ cùng kích thước (Ảnh: KT)
Xã Tam Giang huyện Núi Thành, tỉnh Quảng
Nam hiện có 50 chiếc tàu khai thác xa bờ, gần 2.000 ngư dân tham gia
hoạt động đánh bắt thủy hải sản. Trong số này, chỉ có 1 tàu có công suất
khoảng 1.000 CV. Do khó khăn về nguồn vốn nên việc đầu tư đóng mới tàu
có công suất lớn tại đây còn hạn chế. Khi thông tin về gói tín dụng
10.000 tỷ đồng được triển khai giúp ngư dân vay đóng tàu công suất lớn,
bà con rất phấn khởi.
Ông Phạm Văn Châu – Phó Chủ tịch UBND xã
Tam Giang, Núi Thành, cho biết: “Đây là cơ hội, địa phương cũng khuyến
khích cho ngư dân đầu tư chuyển đổi từ vỏ gỗ chuyển sang đóng vỏ sắt
mang tính an toàn cho ngư dân khi khai thác trên biển.”
Theo tính toán, mức đầu tư cho những
chiếc tàu vỏ sắt cao hơn khoảng 60% so với tàu gỗ cùng kích thước. Tuy
nhiên tàu vỏ sắt có tốc độ di chuyển cao hơn, tiêu hao nhiên liệu thấp
hơn 15%, có thể hoạt động đánh bắt, khai thác thủy sản trên biển liên
tục dài ngày với độ an toàn cao hơn. Mặc dù vậy, ngư dân cũng còn e ngại
với việc chuyển đổi từ tàu gỗ sang tàu sắt bởi nhiều lý do.
Ngư dân Võ Công Thảo, ở xã Tam Hải,
huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam cho biết, bình quân một chiếc tàu gỗ có
công suất khoảng từ 600 - 700 CV thì chi phí cho một chuyến ra khơi
khoảng 150 triệu đồng. Nhưng với tàu sắt thì chi phí gấp 3 - 4 lần, chưa
kể việc sửa chữa, bảo trì đối với tàu sắt cũng phức tạp hơn rất nhiều.
“Việc đóng tàu sắt chỉ để đảm bảo cho quá trình đi lại sóng gió, phòng
chống những tàu lạ, tàu Trung Quốc thôi, chứ còn nói về hiệu quả kinh
tế, thu nhập khai thác đánh bắt tài nguyên trên biển thì phải liên quan
đến lao động, đến thuyền viên. Mà nguồn thu nhập thì sợ rằng sẽ không
đảm bảo cho thuyền viên”, anh Thảo cho biết.
Rõ ràng, để chuyển đổi từ tàu vỏ gỗ sang
tàu vỏ sắt là thay đổi cả thói quen sản xuất của ngư dân từ bao đời
nay. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự tuyên truyền, giải thích cụ thể cho ngư
dân hiểu rõ hơn về lợi ích của tàu vỏ sắt. Bên cạnh đó, việc tiếp cận
với nguồn vốn cũng phải được triển khai nhanh chóng, kịp thời, tạo sự
thông thoáng, tiện lợi cho ngư dân.
Ông Ngô Tấn, Phó Giám đốc Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam cho biết: “Sẽ có sự tiếp
cận với ngư dân, bằng cách hướng dẫn cho họ những phương án, những kế
hoạch, để trên cơ sở sau khi vay từ nguồn vốn hỗ trợ này, để mà có hướng
làm ăn hiệu quả và bền chắc.”
Với gói tín dụng 10.000 tỷ, ngư dân có
điều kiện để hiện thực hóa mong ước có tàu to, máy lớn. Đây là một trong
chính sách đúng đắn giúp ngư dân đóng mới, cải hoán, nâng cấp tàu khai
thác hải sản, tàu dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác hải sản./.
Theo: vov.vn