Muốn giữ nghề, không thể với
thái độ thờ ơ, bỏ rơi nghệ nhân như đã từng diễn ra trong nhiều năm. Mà
cần phải tạo nên sự cộng sinh, tiếp nối giữa nghệ nhân và người trẻ để
giá trị của làng nghề - tinh hoa của đất nước được gìn giữ.
Nghệ nhân - những người
giữ hồn nghề, hồn làng, những “báu vật” giúp cho làng nghề tồn tại và
phát triển đang bị bỏ rơi. Đó là việc chậm trễ trong ghi nhận, phong
tặng danh hiệu. Đồng thời vẫn chưa có cơ chế chính sách thoáng để tạo
điều kiện cho các nghệ nhân cống hiến, truyền dạy thế hệ tiếp nối.
Nghệ nhân nổi tiếng xứ Huế - Lê Văn Kinh
Những giá trị khó phủ nhận
Di
chỉ khảo cổ học Hoàng Thành Thăng Long cách nay nghìn năm minh chứng
vai trò của làng nghề trong việc xây dựng kinh thành và tài năng của
nghệ nhân phát triển rực rỡ đến mức thể hiện rõ nét đặc trưng nghệ thuật
từng chặng đường qua các triều đại Lý - Trần - Lê - Nguyễn…
Có
những nghệ nhân xuất chúng còn lưu danh cho đến ngày nay như Tổ nghề
gốm Chu Đậu - bà Bùi Thị Hý vào thế kỷ XV. Bà là chủ của hơn mười trang
phường gốm sứ, nay thuộc làng Quang Tiền, xã Đồng Quang (Gia Lộc, Hải
Dương). Vốn là một trí thức có năng khiếu hội họa, bà đã tạo dựng dòng
gốm Chu Đậu nổi tiếng khắp nơi. Bà cũng chỉ huy nhiều đoàn thuyền chở
gốm Chu Đậu xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới.
Hiện
nay, một kiệt tác do chính tay bà sáng tạo vào năm 1450 là chiếc bình
gốm hoa lam, cao 54cm, vẫn còn lưu giữ ở bảo tàng Hoàng gia Thổ Nhĩ Kỳ,
hình ảnh chiếc bình được in trên con tem của nước Mỹ. Gốm Chu Đậu khi
xưa hiện còn được lưu giữ ở nhiều bảo tàng trong nước và 46 bảo tàng lớn
ở nhiều quốc gia. Các vị Tổ nghề đều được dân làng thờ phụng với tất cả
lòng thành kính và biết ơn.
Việt
Nam còn có hàng chục làng nghề truyền thống, đặc biệt sản xuất đồ thủ
công mỹ nghệ khác đã gây tiếng vang trên thế giới chẳng thua kém Chu
Đậu. Suốt hàng nghìn năm, làng nghề đã thể hiện các giá trị văn hóa lâu
bền, được gìn giữ và phát triển. Chính làng nghề của “đất nước làng nghề
Việt Nam” đã nuôi sống con người và làm nên trình độ kinh tế cũng như
những giá trị độc đáo về tinh thần của nước ta.
Nghệ
nhân Lê Văn Kinh (TP. Huế) khẳng định: “Trình độ các nghệ nhân được bồi
đắp theo từng năm. Trong dân gian, nước ta có nhiều nghệ nhân giỏi. Họ
chính là những chứng nhân, những người làm nên văn hóa các vùng miền,
góp mặt vào sự phong phú và đa dạng của nền văn hóa Việt Nam”.
Hay
nghệ nhân Nguyễn Quốc Sự ở làng thêu Quất Động (Thường Tín, Hà Nội)
khẳng định: “Có làng nghề, tức là có điều kiện để cư dân vùng đó phát
triển kinh tế. Sự đóng góp của các nghệ nhân, những người có vốn kỹ năng
và trình độ được đúc rút cả cuộc đời là vô cùng quan trọng. Họ chính là
linh hồn của làng nghề, là báu vật sống nắm giữ tinh hoa truyền thống.
Đồng thời là chỗ dựa vững chắc cho làng”.
Vô trách nhiệm với nghệ nhân
Giữ
vai trò quan trọng như vậy nhưng nhiều năm qua những nghệ nhân chưa
được sự quan tâm đúng mức của các ngành, các cấp chính quyền và cả xã
hội. Nhiều nghệ nhân cứ âm thầm, lặng lẽ làm việc không có bất kỳ sự
quan tâm giúp đỡ nào trong hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, điều
kiện làm việc thiếu thốn. Trong khi đó nhiều nghệ nhân nổi tiếng ngày
càng già yếu, sức khỏe suy giảm đã bị rơi vào quên lãng.
Theo
tìm hiểu, từ trung ương, chưa có sự phân cấp rõ ràng trong đánh giá
tiêu chí, thống nhất các danh hiệu. Điều đó dẫn đến việc không có đầu
mối rõ ràng, nơi thì do ngành Công thương, nơi thì do ngành Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn bình xét, phong tặng cho nên đã bỏ sót rất nhiều
nghệ nhân nổi tiếng.
Do đó, nhiều
tổ chức đứng ra phong danh hiệu tạo sự nhiễu loạn trong việc định danh
giá trị của những danh hiệu này, đã có hơi hướng thương mại hóa danh
hiệu. Việc tổ chức phong tặng, nếu có được tổ chức, cũng không tạo nên
sự kiện gây chú ý trong dư luận xã hội. Các buổi tổ chức phong tặng
thường im lìm ở làng, xã.
Rất nhiều
nghệ nhân giỏi, được thế giới biết đến nhưng chưa được phong danh hiệu.
Không ít nghệ nhân dân gian đã mang theo kỹ năng đi vào cõi vĩnh hằng,
để lại một khoảng trống lớn. Có thể nói, các cơ quan chức năng đã thiếu
sự tôn trọng và trách nhiệm cần có với các nghệ nhân.
GS.
Hoàng Chương, Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy
văn hóa dân tộc Việt Nam nêu ý kiến, việc phong tặng nghệ nhân làm ra
các sản phẩm thủ công nặng về văn hóa, mỹ thuật nên giao cho ngành Văn
hóa, còn nghệ nhân nào trong lĩnh vực kinh doanh thì giao Bộ Công Thương
xem xét, phong tặng.
Gần đây Hiệp
hội Làng nghề Việt Nam đã lựa chọn và công nhận 193 nghệ nhân làng nghề.
Nhà nước đã tiến hành hai đợt phong tặng “Nghệ nhân nhân dân” và “Nghệ
nhân ưu tú” cho 37 nghệ nhân. Đây là “những con số biết nói”, bởi với
2.000 làng nghề được công nhận, trong đó 400 làng nghề truyền thống trên
phạm vi cả nước, số nghệ nhân được vinh danh quá ít ỏi. Sự “tiết kiệm”
trong việc phong tặng danh hiệu cùng với biểu hiện thờ ơ với nghệ nhân
đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc truyền dạy, giữ nghề.
Ứng xử cách nào?
Trước
sự bức thiết của cuộc sống và chứng kiến sự mất mát khi các nghệ nhân
mất đi, không có người kế cận, GS. Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam bày tỏ: “Nhà nước, các cơ quan chức năng cần quan tâm
hơn đến các nghệ nhân, sớm hoàn thiện các quy định về chế độ ưu đãi,
công nhận danh hiệu nghệ nhân cho họ. Lâu nay, nhiều nghề truyền thống
bị mai một mà phải nói rằng có muốn cứu vãn cũng không được vì quá
muộn”.
Chung sự sốt ruột ấy, ông Lưu
Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam cho biết, cần phải học
người Nhật cách ứng xử với nghệ nhân ở cách “bảo tồn”. Trước đây, không
ít làng nghề của Nhật bị bỏ rơi. Sau đó Chính phủ đã có những quyết định
sáng suốt là “bảo tồn” nghệ nhân bằng cách quan tâm tốt đến đời sống
của họ, tạo cơ chế để họ có điều kiện dạy, truyền niềm đam mê cho giới
trẻ. Và họ đã thành công.
Muốn giữ
nghề, không thể với thái độ thờ ơ, bỏ rơi nghệ nhân như đã từng diễn ra
trong nhiều năm. Mà cần phải tạo nên sự cộng sinh, tiếp nối giữa nghệ
nhân và người trẻ để giá trị của làng nghề - tinh hoa của đất nước được
gìn giữ. Nghệ nhân có thể già, mất đi, nhưng họ có thể truyền dạy, có
thể gửi tinh hoa được tích lũy cả đời cho thế hệ mai sau.
Theo: Báo mới