Kết
cấu của bia gồm 2 phần: thân bia và đế bia. Thân bia được tạo tác bởi một phiến
đá lớn, phần đầu bia được đục vát hai đầu thành hình tam giác tạo thành trán
bia, hiện đã bị vỡ làm đôi.
Phần đế bia là một khối
đá hình hộp chữ nhật nhìn rất đồ sộ. Nếu bia vẫn còn nguyên vẹn như ban đầu thì
kích thước của nó như sau: Phần thân bia (chiều cao: xấp xỉ 200cm; chiều rộng:
xấp xỉ 100cm; chiều dày: 15 cm); Phần đế bia (Chiều dài: 136 cm; chiều rộng:
100cm; chiều cao: 30cm).
Một bộ Bia và Liễn đá
hiện được bảo quản trong bảo tàng Bắc Ninh, được phát hiện năm 2012. (Ảnh: ANTĐ
)
Theo lời kể của nhân dân địa phương thì trước đây bia vẫn còn nguyên vẹn, chỉ
có một vết nứt chéo ngang thân bia, vào năm 1967 máy bay ném bom của Mỹ bị rơi
trúng địa phận thôn Thanh Hoài, cách vị trí bia hiện nay khoảng 300 m theo đường
chim bay, chuyên gia tháo gỡ bom mìn đến tháo gỡ những quả bom còn chưa nổ còn
sót lại trong lòng đất đã quyết định cho nổ hết số bom đó. Bởi sự chấn động mạnh
khi cho nổ bom khiến cho tấm bia bị vỡ làm đôi như hiện nay.
Qua khảo sát chúng tôi thấy số chữ còn lại ở cả 2 mặt bia là khá khiêm tốn, khoảng
gần 300 chữ, mỗi mặt lại được viết theo một lối chữ khác nhau. Mặt thứ nhất có
dòng niên đại Kiến Hưng nhị niên (314) còn khoảng 120 chữ được viết theo phong
cách Lệ thư; mặt thứ hai có niên đại Tống Nguyên Gia chấp thất niên (450) còn
khoảng 150 chữ được viết theo phong cách Khải thư, nét chữ ở cả 2 mặt đều được
khắc sâu và rõ nét.
Bởi số chữ còn lại rất ít và không liền mạch, nên chúng tôi dựa vào những con
chữ ghi chép về địa danh, về nhân vật, cùng với những ghi chép của chính sử để
cố gắng khôi phục lại nội dung và tìm ra những vấn đề liên quan. Để tiện theo
dõi chúng tôi quy ước văn bia chia làm 2 mặt: mặt thứ nhất (mặt có dòng ghi
niên đại Kiến Hưng nhị niên); mặt thứ 2 (có dòng ghi niên đại Tống Nguyên Gia
chấp thất niên).
Mặt thứ nhất:
Vốn dĩ ở mặt này phần lòng văn được khắc chữ khá dài nhưng qua thời gian quá
dài (khoảng 1699 năm), mặc dù với chất đá tốt, nét chữ sâu nhưng cũng không
tránh được bong chóc làm tổn hại bề mặt bia nên số lượng chữ còn lại ít và
không liền mạch như trên đã trình bày. Qua khảo sát, chúng tôi thấy bố cục lòng
văn được chia làm 4 phần: tiêu đề chính; phần ghi lai lịch nhân vật được nhắc đến
trong bia; phần bài minh và phần ghi dòng niên đại ở cuối cùng.
Tiêu đề chính được ghi trên trán bia với 2 dòng chữ to: “TẤN(?) CỐ SỨ TRÌ TIẾT
QUÁN QUÂN TƯỚNG/ [QUÂN] GIAO CHÂU MỤC ĐÀO LIỆT HẦU BI” (Văn bia ghi chép về Trì
tiết Quán quân tướng quân (?) Giao Châu mục Đào liệt hầu nước Tấn). Qua tiêu đề
của văn bia chúng ta biết được đây là văn bia ghi chép về nhân vật Đào Hoàng, từng
làm Thứ sử Giao Châu. Đào Hoàng tự là Thế Anh, không rõ năm sinh, chỉ biết mất
năm 300. (Do khuôn khổ một bài báo, không thể nêu chi tiết nội dung chúng tôi sẽ
đề cập đầy đủ trong một dịp khác).
Ở dòng cuối cùng của mặt bia này chúng tôi thấy có ghi dòng chữ “Kiến Hưng nhị
niên cửu nguyệt nhâm…” (tháng 9 niên hiệu Kiến Hưng năm thứ 2). Chúng tôi cho rằng
đây chính là dòng ghi niên đại dựng bia, bởi đây là dòng chữ cuối cùng của mặt
bia, bên cạnh dòng chữ này chúng tôi không thấy có dấu hiệu khắc thêm chữ.
Về niên hiệu Kiến Hưng, theo khảo sát của chúng tôi thì từ sau năm Đào Hoàng mất
(năm 300) cho đến nhà Tiền Lương thì có tới 7 lần niên hiệu Kiến Hưng được sử dụng.
Trong vòng 57 năm (304 - 361) có đến 7 lần sử dụng niên đại Kiến Hưng, vậy thì
niên đại Kiến Hưng được nhắc đến trong bia là niên đại nào?
Giả thuyết thứ nhất, nếu theo logic về mặt thời gian thì niên hiệu Kiến Hưng của
nhà Thành Hán là tương đối hợp lý, bởi theo niên đại này thì niên hiệu Kiến
Hưng nhị niên sẽ là năm 305, tức 5 năm sau khi ông qua đời.
Giả thuyết thứ hai, theo chúng tôi thì đây là niên hiệu của Tấn Mẫn Đế (313 -
317) vì sau khi Đông Ngô hàng Tây Tấn thì Đào Hoàng lại trở thành đại tướng dưới
triều đại này. Nếu tính từ khi ông mất cho đến niên đại Kiến Hưng thứ 2, tất cả
là 14 năm (từ năm 300 đến năm 314), cũng không phải là khoảng thời gian quá lâu
cho việc dựng bia.
Thêm vào đó, trên tiêu đề được ghi ở trán bia: “TẤN(?) CỐ SỨ TRÌ TIẾT QUÁN QUÂN
TƯỚNG [QUÂN] GIAO CHÂU MỤC ĐÀO LIỆT HẦU BI” (Chữ TẤN chỉ còn bộ VIẾT phía dưới,
chữ QUÂN trong ngoặc đứng mất hẳn, đọc theo vị trí chữ và chức phong của nhà Tấn
cho Đào Hoàng trong Tấn thư). Với những cứ liệu trên, chúng tôi cho rằng dòng
niên đại được nhắc đến trong bia rất có thể là niên hiệu của Tấn Mẫn Đế, tức
niên hiệu Kiến Hưng nhị niên (314).
Mặt thứ hai:
Ở mặt bia này không thấy khắc tiêu đề chính trên trán bia mà chỉ thấy khắc phần
nội dung. Căn cứ vào bố cục trình bày chúng tôi thấy toàn bộ phần nội dung được
khắc thành 8 dòng, gồm khoảng hơn 160 chữ, số chữ có thể đọc được khoảng gần
150 chữ, còn lại là những chữ bị mất. Chúng tôi cho rằng đây là một bài văn bia
hoàn chỉnh, có nội dung ghi chép về việc tu sửa công trình thờ tự viên tướng
Đào Hoàng từng cai trị đất Giao Châu.
So với tấm bia tháp xá lợi có niên đại 601 mà nhân dân xã Trí Quả, huyện Thuận
Thành đã hiến tặng cho bảo tàng tỉnh Bắc Ninh hồi năm trước (2012) thì tấm bia
đá ở nghè thôn Thanh Hoài (nêu trên) là tấm bia có niên đại sớm hơn, nhưng đáng
tiếc bia này lại bị vỡ làm đôi, chữ khắc ở 2 mặt bia đã mờ và mất nhiều.
Qua khảo sát bước đầu chúng tôi mới thấy được nội dung ghi chép về thân thế sự nghiệp
của nhân vật lịch sử Đào Hoàng, là một viên tướng của Trung Quốc, sống dưới hai
triều Đông Ngô và Tây Tấn, từng cai trị nhiều năm ở xứ Giao Châu. Mặc dù tấm
bia này giờ đã bị vỡ làm đôi, chữ khắc ở hai mặt đã bị mờ và mất nhiều nhưng nó
vẫn có giá trị tiêu biểu dưới góc độ “bảo tàng”.
Theo: baobacninh