TIN TỨC - VẤN ĐỀ HÔM NAY
Minh chứng tuyệt mỹ của con đường tơ lụa trên biển
(Ngày đăng: 21/09/2013   Lượt xem: 681)

Bình thiên nga được làm bằng chất liệu gốm men, cao 56,5cm, đường kính miệng 23,8cm, đường kính đáy 25,8cm, nặng 15,6kg, có dáng búp sen, miệng loe tròn, gờ miệng phẳng. Thân phình thuôn dần xuống đáy.

Bình gốm vẽ thiên nga của Việt Nam được trục vớt từ tàu đắm cổ dưới đáy biển. Ảnh do Bảo tàng LSVN cung cấp.

Từ miệng, cổ và thân bình đều được vẽ trang trí hoa lam bao gồm 7 băng hoa văn: hoa dây, cánh sen kép trong có xoắn ốc, vân mây dải hình khánh, phong cảnh, cây hoa lá, sóng nước, lá đề xen kẽ bốn chim thiên nga với các tư thế bay và đậu khác nhau. Hiện bình gốm hoa lam vẽ thiên nga đã chính thức được công nhận là Bảo vật Quốc gia, đồng nghĩa với việc trở thành một trong những bảo vật hàng đầu và được bảo vệ đặc biệt.

Đây là chiếc bình gốm có kích thước lớn nhất, có đề tài trang trí hoành tráng nhất trong số những hiện vật độc bản quý hiếm từ đợt khai quật tàu đắm Cù Lao Chàm vào năm 1997 - 2000 mà Bảo tàng Lịch sử Việt Nam hiện đang lưu giữ. Chiếc bình gốm này có nguồn gốc sản xuất từ vùng lò gốm Chu Đậu nổi tiếng vào thời Lê Sơ - TK 15.

1. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng từng nhận xét rằng, có một thời, ở phương Tây, đồ gốm chỉ được coi là đối tượng của nghệ thuật thứ cấp, so với kiến trúc và điêu khắc. Trong khi đó, ở phương Đông, nhất là ở Trung Hoa, từ xưa đồ gốm đã được coi là loại hình nghệ thuật cấp trưởng.

Cũng đã từng có thời, từ nửa cuối TK 19 đến giữa TK 20, giới Đông phương học Âu Tây chỉ coi Việt Nam là một “Trung Hoa bé tí xíu”, do vậy họ cũng coi đồ gốm sứ Việt Nam chỉ là một nhánh của cây đại thụ gốm sứ Trung Hoa. Nửa sau TK 20, sau khi đi sâu nghiên cứu, bàn luận về công nghệ lò nung rồi sự diễn tiến về kiểu dáng và men, họ (Roxanna Brown, John Guy…) đều đã nhận ra rằng, Việt Nam có lịch sử lâu dài nhất về sản xuất gốm tráng men ở Đông Nam Á.

Theo PGS-TS khảo cổ học Phạm Lý Hương, trong lịch sử Việt Nam, gốm hoa lam có vị trí đặc biệt quan trọng và được xem như một thành tựu lớn của nền công nghệ gốm cổ Việt Nam. Những sản phẩm gốm này không những đáp ứng thị trường trong nước mà còn là mặt hàng tiêu biểu của gốm Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài trong nhiều thế kỷ.

Những số lượng gốm lớn phát hiện được trên các con tàu đắm ngoài đại dương hay trong đất liền, tại chính nước sản xuất hay nước tiêu thụ trong các năm qua, không những làm tăng tri thức chuyên môn về con đường giao lưu gốm sứ mà còn cung cấp cho chúng ta những hiểu biết sâu hơn về dòng gốm này trong lịch sử.

Tám mươi năm trước đây, thế giới hiện đại lần đầu tiên biết rằng, vào TK 14 - 15, dòng gốm hoa lam được sản xuất không nơi nào khác ngoài Trung Quốc. Nhưng sau khi L.R.Hobson phát hiện dòng minh văn ghi trên vai bình gốm hoa lam đẹp cao 54cm trưng bày ở Bảo tàng Topkapi Saray, Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) vào những năm 1933-1934 (có dòng chữ ghi rõ “Đại Hòa bát niên tượng nhân Nam Sách châu Bùi thị hý bút” - năm Đại Hòa thứ 8 - 1450 đời Lê Nhân Tông, thợ gốm châu Nam Sách họ Bùi vẽ chơi - đã mở rộng cánh cửa cho lĩnh vực nghiên cứu mới.

Từ đó, người ta quan tâm tới một địa danh có tên là Nam Sách, ở đâu đó bên lưu vực sông Hồng, nơi có thể có những lò sản xuất gốm. Họ gọi đây là “gốm An Nam” và coi đó là “một hiện tượng mới” trong lịch sử gốm phương Đông. Nhưng phải đợi 52 năm sau, những bí ẩn về nơi sản xuất chiếc bình gốm hoa lam đẹp nổi tiếng ấy mới được khám phá.

Từ những thông tin của ông Mokoto Anabuky - Đại sứ Nhật Bản tại Hà Nội - về bình Topkapi, các cán bộ bảo tàng Hải Hưng (nay là Hải Dương), do ông Tăng Bá Hoành phụ trách, đã lần tìm và phát hiện ra di tích gốm Chu Đậu tại châu Nam Sách xưa, vào đầu năm 1983. Và cũng từ đó, người ta mới biết dòng gốm hoa lam cũng được sản xuất ở Việt Nam từ hơn 500 năm trước.

2. Làng gốm Chu Đậu (nay thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) là một trung tâm sản xuất gốm lớn nhất của đất nước ta ra đời vào thế kỷ 14 và phát triển rực rõ nhất vào thế kỷ 15-16. Làng gốm Chu Đậu thường sản xuất những dòng gốm cao cấp, gốm mỹ nghệ phục vụ cho tầng lớp trên, phục vụ tôn giáo, tín ngưỡng và xuất khẩu ra nước ngoài.

Dòng gốm Chu Đậu có sự kết hợp nhiều kỹ thuật trang trí như đắp nổi, chạm, dán ghép, khắc chìm. Men sử dụng với nhiều màu khác nhau rất phong phú: Men trắng hoa lam, men nâu, xanh lục, men ngọc, men trắng vẽ tam thái hoặc kết hợp vẽ vàng kim trên men. Sự chuyển đổi kỹ thuật dùng bút lông để vẽ hoa văn bằng màu dưới men đã đem lại cho công nghệ gốm Việt Nam những nét mới mẻ và dẫn tới sự ra đời của gốm hoa lam. Gốm hoa lam là thuật ngữ dùng để chỉ những đồ gốm có men trắng được vẽ màu xanh cobalt dưới men. Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến và mang tính quốc tế.

Ở ngoài khơi Hội An, cách Cù Lao Chàm 14 hải lý về phía đông bắc, cuộc khai quật dưới biển trong những năm 1997 - 2000 đã phát hiện được một khối lượng khổng lồ hơn 150.000 đồ gốm hoa lam còn nguyên vẹn trên một con tàu đắm, có niên đại khoảng giữa TK 15. Những đồ gốm này là sản phẩm của các lò gốm ở tỉnh Hải Dương, cho thấy con tàu này đã mua gốm từ một thương cảng nào đó ở Bắc Bộ và đang trên đường đi xuống phía nam đến các nước Đông Nam Á hải đảo để tiêu thụ.

Cụ thể hơn, tháng 5.1997, con tàu đắm cổ này được thăm dò và khai quật, một sự kiện khảo cổ học dưới nước đặc biệt. Tàu nằm ở độ sâu 70-72m. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Visal và Cty Saga Horizon (Malaysia) đã tiến hành khai quật cùng với nhiều chuyên gia khảo cổ học của Anh, Malaysia, Czech… Kết quả khai quật cho biết dấu vết con tàu dài 29,4m, rộng 7,2m, trong lòng chia 19 khoang, gỗ đóng tàu là loại gỗ tếch còn tốt và các thanh dầm ngăn cách các khoang còn thấy được ghép rất chắc chắn.

Tổng số lượng cổ vật thu được trong con tàu trên 240.000 chiếc, chủ yếu là đồ gốm sản xuất tại Chu Đậu (Hải Dương) và Thăng Long (Hà Nội) thuộc Bắc Việt Nam, vào nửa cuối TK15. Trong tàu cổ này còn có một số đồ gốm sứ Trung Quốc và Thái Lan là đồ dùng của thủy thủ đoàn. Cuộc khai quật này có chuyên viên lặn bão hòa nước ngoài và giám đốc khai quật khảo cổ học dưới nước của ĐH Oxford (Luân Đôn, Anh Quốc) và Giám đốc điều hành là ông Ong Soo Hin - Giám đốc Cty Saga. Kết quả khai quật đã được trình bày trong “Báo cáo khai quật khảo cổ học dưới nước tàu đắm cổ Cù Lao Chàm” (Phạm Quốc Quân - Tống Trung Tín, 2000).

Những phát hiện khảo cổ về gốm trong các con tàu chìm Rang Kwian (vịnh Thái Lan), Turiang (Malaysia), Padanan (Philippines) từ 1976 tới 1993 đã phác thảo nên một bức tranh đẹp về gốm cổ Việt Nam. Bức tranh đó càng rực rỡ khi khai quật tàu cổ Cù Lao Chàm. Sau khi có quyết định của Chính phủ Việt Nam, 10% số hiện vật trong tàu đã được lựa chọn và phân chia cho các bảo tàng: Bảo tàng LSVN 4.362 hiện vật cùng 779 hiện vật độc bản, Bảo tàng LSVN tại TP.HCM 4.362 hiện vật, Bảo tàng Mỹ thuật VN 4.362 hiện vật, Bảo tàng tỉnh Quảng Nam 5.562 hiện vật, Bảo tàng tỉnh Hải Dương 5.562 hiện vật.

Chủ đề trang trí có hình tượng con người, động vật, côn trùng, thủy tộc, hoa lá, phong thủy… kết hợp kỹ thuật trang trí nổi với vẽ lam hay vẽ nhiều màu trên men. Mỗi loại hoa văn lại có nhiều bố cục, nhiều cách thể hiện tạo nên sự đa dạng chưa từng có. Đồ gốm hoa lam với kỹ thuật thể hiện bằng bút lông đã cho thấy tài khéo vô cùng của người thợ gốm xưa. Đó là một bút pháp điêu luyện tuyệt vời: Khi thì tỉa vẽ thật chi tiết, khi thì phóng bút nhanh và thoáng. Lối thể hiện không gian ba chiều, luật viễn cận trong hội họa đều như được sử dụng rất nhuần nhụy, và từ đó phô diễn một cách kỳ lạ, sinh động, đa dạng đời sống xã hội và cả thế giới của một miền nhiệt đới TK15.

3. Mầm mống ngoại thương nằm trong lịch sử giao lưu lâu dài giữa Việt Nam và thương nhân từ nhiều nước đã đến buôn bán tại Việt Nam. Vậy mà mãi đến TK20, người ta mới phát hiện gốm Việt Nam trong bối cảnh xuất khẩu tại Tây Á, lục địa và hải đảo Đông Nam Á, cũng như Nhật Bản. “Thị trường Tây Á là tác nhân kích thích đầu tiên giúp Trung Quốc sản xuất gốm hoa lam với quy mô lớn, và sau đó Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của sự phát triển lịch sử này. Việt Nam đi vào thị trường xuất khẩu gốm hoa lam được thấy rõ rệt vào TK14 và tiếp theo đó là những giai đoạn bành trướng đáng kể ở TK17.

Vô số gốm hoa lam Việt Nam tìm thấy ở Đông Nam Á là thành phẩm của hoạt động mậu dịch này. Qua đó Việt Nam giành được cho mình một vị trí bền vững trong lịch sử gốm hoa lam trong giai đoạn sớm. Còn ở Tây Á, sự có mặt của gốm đã gián tiếp cho biết Việt Nam tham gia trong cuộc buôn bán đường dài này, với những sản phẩm gốm tinh vi với chất lượng cao và giá bán cạnh tranh. Sự có mặt của gốm hoa lam Việt Nam trong những sưu tập có uy tín cho biết chúng đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật và khiếu thẩm mỹ của khách hàng sành sỏi và giàu có nhất thế giới” (Kerry Nguyễn Long - “Gốm hoa lam trong bối cảnh xuất khẩu”).

Bùi Minh Trí trong cuốn “Gốm hoa lam Việt Nam” nhận xét: Một trong những tiêu chí đánh giá về sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật gốm Việt Nam thời kỳ này phải kể đến các bức vẽ về động vật. Đây là những đồ án đẹp được thể hiện rất cầu kỳ, sinh động, với bút pháp điêu luyện có thần, mang tính hiện thực cao. Có thể nói không quá rằng, những bức vẽ chim, cá có chất lượng cao so với đồ sứ thời Minh cùng thời, thì dường như đã vượt qua độ tinh xảo, chứng tỏ bước phát triển rất cao về nghệ thuật trang trí.

Sự cầu kỳ của chiếc bình gốm vẽ hoa mẫu đơn dây ở Bảo tàng LSVN, chiếc bát vẽ hoa sen dây ở Bảo tàng HN, chiếc đĩa lớn vẽ hoa sen dây và hai con sư tử vờn quả cầu lửa ở Bảo tàng Pusat Jakarta (Indonesia), chiếc bình dáng con tiện vẽ rồng là vật báu của gia đình tướng quân Togugawa (Nhật Bản) trước đây hay những chiếc bình tỳ bà (vì có dáng gần giống đàn tỳ bà) vẽ hoa lá, chim phượng và rồng là những ví dụ điển hình.

Với chiếc bình gốm Thiên Nga này, xin lưu ý rằng, nó còn cao lớn hơn cả chiếc bình Topkapi nổi tiếng. Từ kiểu dáng cho đến nghệ thuật trang trí cho ta thấy minh chứng đỉnh cao một phong cách trang trí đậm tính hội họa do các nghệ nhân trong dòng gốm Chu Đậu thể hiện từ hơn 500 năm trước.

Bảo tàng LSVN nhận xét rằng, những đề tài trang trí ở đây đã thoát ra khỏi khuôn mẫu của đề tài kinh điển Trung Hoa mà được thể hiện mang tính phóng khoáng, sáng tạo, đậm chất dân gian, hồn quê đất Việt vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Qua những đề tài thể hiện trên bình gốm cho ta hình dung phần nào về vẻ đẹp của quê hương đất nước Việt Nam thời Lê Sơ TK15, một quốc gia hùng mạnh ở Đông Nam Á lúc bấy giờ.

Chiếc bình gốm này xứng đáng là một tác phẩm gốm nghệ thuật độc đáo, vật chứng tiêu biểu của nghề gốm truyền thống Việt Nam ở triều đại Lê Sơ. Bảo vật quốc gia không chỉ là các hiện vật bằng ngọc, bằng vàng, bằng đá quý, kim cương, mà còn nằm nơi đất và nước, hai chất liệu chính hóa hợp cùng lửa, dưới bàn tay tài khéo vô cùng của người nghệ nhân đất Việt xưa, tạo thành.

Theo kết quả nghiên cứu gần đây của Giáo sư Misugi Takatoshi (Nhật Bản), con đường tơ lụa trên biển hình thành rất sớm, từ khi kỹ thuật đóng thuyền buồm bọc gió vượt biển được xác lập từ đầu công nguyên và ngày càng phát triển khi kỹ thuật la bàn đi biển được phát minh tạo điều kiện cho những thương thuyền cỡ lớn chuyên chở hàng lụa, hồ tiêu, hương liệu, trầm hương, sản phẩm sành sứ… thay thế dần các đoàn lữ hành bằng lạc đà trên lục địa đầy trắc trở và hoang vắng.

Song song với sự hưng thịnh rực rỡ của nền văn minh Lưỡng Hà vào thế kỷ 9 - 11, hàng hóa từ Trung Quốc, Việt Nam, Indonesia... đã được đưa đến các xứ Ai Cập cổ đại để mua bán, trong đó có hàng “sành sứ An Nam”, đặc biệt loại bát chén men ngọc được người Vịnh Ba Tư rất ưa chuộng, xem là một dụng cụ để đo thuốc độc trong thức ăn (poisoning test) trong thời kỳ các nước và bộ tộc tranh chấp ác liệt và truyền thuyết đó vẫn được lưu lại cho đến ngày nay.
                                                                                                  Theo: Laodong

Ý kiến bạn đọc 0 bình luận
 
Gửi bình luận của bạn
(Bấm vào đây để nhận mã)
Gửi thông tin Nhập lại
 
 
                                

Bản quyền thuộc về:  Công ty cp Giáo dục và Đào tạo Hoàng Gia Quốc Tế
S
Ince 31-08-2010

Ban truyền thông quan hệ quốc tế - Hiệp hội làng nghề Việt Nam     

Phụ trách biên tập : Nhà báo Lê Kim Hoa       

Địa chỉ: T 16 Hàn Việt Tower- 348 Kim Ngưu, Q Hai Bà Trưng, Hà Nội

Văn phòng 1: Tầng 2 Tòa nhà 14a Khu đô thị Định Công - Quận Hoàng Mai _ Hà Nội - văn phòng Lineup

Văn phòng 2: 489 Hoàng Quốc Việt tầng 03                                             

International royal education & training.,jsc                                                

Tel: 024.73046226  Hot line; 0929805137 Viber - zalo :0929805137 

Email: irecvietnam@gmail.com   : facebook: irecvietnam,  


 

5
Đang xem:
72.519.340
Tổng truy cập: