Mai một làng nghề nghìn tuổi
(Ngày đăng: 13/08/2013 Lượt xem: 937)
Đã là người Vọng Nguyệt thì ai cũng biết trồng dâu nuôi tằm, ươm
tơ, kéo kén. Nhưng đó là chuyện của quá khứ, làng nghề truyền thống, tồn
tại nhiều thế kỷ nay đã bị mai một trước cơn lốc thị trường. Chỉ ít
năm trước thôi, từ đầu làng cuối xóm luôn lách cách tiếng quay tơ, thì
nay thay bằng những âm thanh chát chúa của máy xẻ gỗ…
Dàn máy quay tơ nhà ông Hành phủ bạt từ rất lâu không sử dụng
Đã từng “chết đi, sống lại”
Theo ghi chép của làng thì nghề tơ tằm xuất hiện ở Vọng Nguyệt - huyện
Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh tính đến nay cũng gần 1.000 năm. Trải qua bao
biến cố, thăng trầm, nghề tơ tằm ở ngôi làng nhỏ này cho đến nay đã có
nhiều thay đổi. Đã từng có thời gian rất dài trong chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ, nghề này không có điều kiện phát triển. Vào đầu những
năm 80 của thế kỷ trước, những con người tâm huyết của làng như cụ Ngô
Văn Thị, Chu Văn Biền đã có công gây dựng, làm sống lại nghề. Nhớ lại
cái thời phục sinh nghề cũ, cụ Ngô Văn Thị đăm chiêu, đó là những ngày
tháng cực kỳ khó khăn, từ việc vận động cho tới sản xuất, mãi sau rồi,
các hộ dân trong làng nhìn thấy những người đi trước thành công, lúc đó
mới yên tâm học hỏi và làm theo. Đến khi xóa bỏ bao cấp, chuyển sang
kinh thế thị trường, nghề trồng dâu nuôi tằm bắt đầu bước vào thời kỳ
hoàng kim. Trước đây, nghề này đã nuôi sống người dân Vọng Nguyệt, cả
làng khi đó có khoảng 300- 400 hộ làm nghề. Nhưng giờ, làng nghề đang
đứng trước nguy cơ mai một do không thể cạnh tranh nổi với hàng hóa nhập
ngoại. Làng Vọng Nguyệt giờ luôn ầm ĩ bởi tiếng cưa của hàng loạt xưởng
gỗ trong làng.
Cứu nghề thế nào
Ông Ngô Văn Tiền cho biết: Từ năm 2004 đến nay, nghề tơ tằm bắt đầu suy
thoái. Trước kia cả làng có gần 400 hộ sản xuất nhưng hiện nay chỉ còn
vài chục hộ đủ sức và nhẫn nại theo được nghề. Làng chủ yếu cung cấp
nguyên liệu cho các đầu mối ở Nội Duệ (Tiên Du) rồi xuất khẩu sang Lào
và Thái Lan. Đến làng Vọng Nguyệt bây giờ hiếm lắm mới gặp người quay
tơ. Máy móc phục vụ sản xuất đều bị “đắp chiếu”, bụi phủ dày. Nghề không
nuôi sống được gia đình, vì thế cũng không ai còn tha thiết, đàn ông
trong làng chuyển sang làm thợ xây, làm gỗ… Thanh niên đua nhau làm công
nhân ở các khu công nghiệp quanh thành phố Bắc Ninh.
Những cuộn tơ hiếm hoi được sản xuất tại làng Vọng Nguyệt
Men theo con đường làng chúng tôi tìm đến nhà ông Ngô Văn Vĩnh, một
trong những người cuối cùng của Vọng Nguyệt còn kiên tâm theo nghề. Nhà
ông hiện trồng một mẫu dâu, nhưng nuôi lứa tằm nào hỏng lứa đấy, ông
phải sang tận Thái Bình mua con giống với giá hơn 400.000 đồng/kg. Năm
ngoái, nhà ông Vĩnh lỗ 10 triệu đồng tiền mua tằm giống, đấy là không
tính đến tiền công trồng dâu, hái dâu và chăm sóc tằm.
Ông Vĩnh chia sẻ: “Nghề chăn nuôi tằm ngày càng gặp nhiều rủi ro dịch
bệnh, bởi vậy, phần lớn người dân ở đây bỏ nghề, diện tích trồng dâu
cũng ngày càng thu hẹp.” Trong làng, giờ còn hộ gia đình ông Ngô Văn
Hành là cơ sở ươm tơ, kinh doanh tơ lớn và duy nhất còn sót lại của làng
Vọng Nguyệt. Nhà ông hiện có 2 dàn máy quay tơ công nghiệp mỗi ngày sản
xuất khoảng 300kg tơ, tạo việc làm cho 8-10 lao động trong thôn. Ông
Hành kể, trước đây sản xuất tơ từ loại kén vàng truyền thống, nên ông
chuyên thu mua kén từ các hộ trong làng. Ngày nay, ông chỉ nhập loại kén
trắng về để kéo tơ. Làng Vọng Nguyệt không ai nuôi loại tằm kén trắng,
nên nguyên liệu kén phải đi thu mua ở các địa phương khác: Vĩnh Phúc,
Yên Bái… Tằm cho kén trắng là giống tằm lai có xuất xứ từ Trung Quốc, ở
Việt Nam không có giống này.
Một làng nghề có tới gần 1.000 năm hình thành và phát triển, từng có quá
khứ huy hoàng, giờ trước cơn lốc thị trường nghiệt ngã, cứ dần lụi tàn
đi, những người còn tâm huyết với nghề thì đau đáu xót xa, nhưng cũng
đành bất lực. Người Vọng Nguyệt cũng muốn giữ nghề, phát triển nghề
nhưng cách nào thì đó còn là câu hỏi, chưa có lời đáp.
Theo: ANTĐ