Bộ cửa ở chùa Phổ Minh hơn 700 năm tuổi,
được đóng bằng gỗ lim từ thời Trần với hoa văn
hình con rồng uốn lượn trong lá đề,
được trưng bày tại Bảo tàng Nam Định
Các bậc vua hiền, tướng giỏi thời Trần
cũng rất khéo huy động toàn dân vào cuộc chiến tranh tự vệ, thể hiện
qua việc thực hiện kế "thanh dã” (vườn không nhà trống) để làm cho kẻ
thù không có lương thực, tạo điều kiện cho kháng chiến thành công. Cách
vỗ về, yên dân này phải nói là ít vương triều, kể cả trước thời Trần,
sau thời Trần làm được. Và chính đây là nguyên nhân thắng lợi mà vị Tiết
chế quốc công Hưng Đạo Đại Vương, người con của Tức Mặc – Thiên Trường
đã đúc kết : "Vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước ra sức nên bọn
giặc phải chịu bị bắt”.
Việc lấy đức trị dân và nới sức dân
hiệu quả được chứng minh qua sự kiện ba lần vương triều Trần tổ chức
kháng chiến tiêu diệt gần 100 vạn quân Nguyên Mông, khiến kẻ thù khiếp
sợ đến nỗi tóc bạc trắng, còn cộng đồng dân tộc Việt thì vô cùng biết
ơn, bởi hoạ xâm lăng không còn. Chiến tích lẫy lừng trên là nét vàng son
chói lọi, cũng là niềm tự hào của quân dân Đại Việt và trên đất Thiên
Trường - Nam Định còn lưu câu đối tại cổng Trần Miếu :
"Bảo quốc hộ dân ngoại tặc chí kim do bạch phát
Nhân hoà đức trị nội bang tự cổ hạ hoàng ân”
(Giữ nước giúp dân, giặc ngoại xâm đến nay khiếp đảm đầu bạc trắng,
Lấy đức trị quốc, nhân dân trong nước khắp nơi cảm tạ ơn vua)
Trên đất Tức Mặc – Thiên Trường mà nay
thuộc thành phố Nam Định và các làng xã phụ cận còn nhiều di tích thờ
vua, thờ vương phi công chúa cùng các tướng lĩnh thời Trần. Tiêu biểu
hơn là khu di tích đặc biệt đền Trần và chùa Phổ Minh.
Mùa Xuân ở Trần Miếu – Tức Mặc – Thiên
Trường còn có lệ khai ấn. Cánh ấn này không phải của triều đình, chỉ là
ấn tâm linh ở miếu thờ các vị Hoàng Đế với các dòng chữ ghi trên ấn:
"Trần miếu tự điển” và "Tích phúc vô cương” (Ban cho điều phúc lớn, theo
điển thờ tại miếu nhà Trần). Đây là cánh ấn cầu phúc có từ lâu đời,
trước kia nhân dân địa phương Tức Mặc xin ấn để mong cho gia đình được
hạnh phúc, việc làm này thành lệ và cũng thật đơn giản.
Dấu xưa Thiên Trường còn có nhiều di
chỉ, di tích, nó trở thành di sản văn hoá rất đáng trân trọng. Đó là
công trình chùa, tháp Phổ Minh. Ngôi chùa cổ có từ thời Lý, sang thời
Trần được mở mang, hiện còn một số đá chân tảng là dấu vết chứng minh.
Hàng sóc đá, rồng đá thời Trần, bộ cánh cửa ở toà tiền đường cũng là
điều chứng minh. Một số văn bia thời Lê và đặc biệt là toà bảo tháp cao
20m có niên đại thời Trần Anh Tông – 1305, trên thượng tháp còn quách
đựng xá lị đức vua Trần Nhân Tông. Đây là bảo tháp thời Trần cao, to và
nguyên vẹn nhất Việt Nam.
Một số bệ đá chạm khắc rồng, cánh sen
thời Trần ở các chùa An Lá, Vạn Đồn, Lục Độ… Những cặp sóc đá sinh động ở
chùa Đệ Tứ cùng các mảng sân gạch hoa chìm sâu trong lòng đất nơi đây,
cũng là những tác phẩm nghệ thuật mang sắc thái nhà Trần, rất khoẻ
khoắn.
Bia đá thời Trần ở Mỹ Thịnh, Mỹ Thành
vừa chứng minh nghệ thuật điêu khắc độc đáo, vừa có nội dung xúc tích,
tán dương bà chủ thái ấp hiền thục, giỏi giang Phụng Dương công chúa,
phu nhân của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải.
Bảo tàng Nam Định cũng đã thu thập
được một khối lượng đáng kể hiện vật đất nung, đồ gốm trong lòng đất đã
và đang trưng bầy được đông đảo cán bộ, nhân dân tấm tắc khen ngợi. Đó
là chiếc thạp gốm thời Trần tìm thấy ở cánh đồng Cửa Triều – Tức Mặc.
Nhiều bát, đĩa cổ thời Lý, Trần rất có giá trị. Lại cả những chồng gốm
khi nung bị khê dính vào nhau, dưới trôn bát có chữ "Thiên Trường phủ
chế”. Chồng gốm khê biết nói này thật ý nghĩa, không chỉ cho biết nơi
sản xuất mà còn đánh vào quan điểm của thế lực ngoại xâm, phủ nhận sự
sáng tạo, tài làm gốm của dân tộc ta.
Nhưng một số địa danh tiếp giáp với
cung điện Thái Thượng hoàng nhà Trần như Đệ Nhất, Đệ Nhì, Đệ Tam, Đệ Tứ
với các phế tích kiến trúc quy mô, vật liệu xây dựng được làm kỳ công và
những câu chuyện về hoàng hậu, vương phi còn rất trẻ khiến không thể
không suy ngẫm về chủ nhân trên các hành cung?
Ngói hình lá đề là dấu tích của vật trang trí
kiến trúc kinh thành Thiên Trường xưa
Thời Trần giữ ngôi 175 năm, thời kỳ
thịnh trị từ các hoàng đế Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân
Tông, Trần Anh Tông rồi Trần Minh Tông (1329). Trên một thế kỷ năm vị
vua hiền có nhiều năm, tháng gắn bó với Thiên Trường – Nam Định. Trên
một thế kỷ các vua hiền đã đóng góp không nhỏ trong việc lấy đức trị
dân, không vì đặc quyền đặc lợi, không ham muốn sở thích đời thường, hết
lòng vì giang sơn xã tắc, thương dân và tin ở dân nên ngôi báu lâu dài,
đương thời và hậu thế tâm phục khẩu phục. Đây là nét vàng son chói lọi
mà ít triều đại phong kiến Việt Nam có được. Phải chăng các vị hoàng đế
lãnh đạo đất nước đã theo đúng lời khuyên của Quốc sư Phù Vân:
"Phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”. Theo: Đại Đoàn Kết
|