Văn hóa truyền thống Tây Nguyên vô cùng phong phú, đa dạng và giàu bản
sắc nhưng đang bị phai nhạt và mai một dần. Ðó là một thực tế rất đáng
lo ngại. Quan điểm của chúng ta là cần phải bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa các tộc người trong tiến trình hội nhập và phát triển đất nước.
Nhưng bảo tồn những gì, bảo tồn như thế nào và ai là chủ thể trong công
việc đầy khó khăn nhưng vô cùng quan trọng này?...
Già làng Ðiểu K’Kheng (dân tộc S’Tiêng, Ðác Nông): Bọn trẻ
không còn thích nghe và chơi khèn M’bướt, cồng chiêng nữa. Chúng cũng
thích uống rượu đế hơn là rượu cần. Khèn M’bướt lại khó học, khó chơi
nên chẳng ai màng đến chuyện học hỏi nữa. Không được sử dụng nên cũng
chẳng còn mấy người biết làm khèn. Người biết đánh chiêng và chỉnh
chiêng bây giờ cũng ít. Cũng có nhiều người tò mò, muốn học chỉnh chiêng
nhưng đa số là theo kiểu truyền tay. Học theo cách như hiện nay là "cầm
tay chỉ việc" thì rất khó để bảo tồn, phát huy giá trị của những bộ
cồng chiêng. Số lượng các nghệ nhân đang ngày càng ít đi, còn lớp trẻ
thì chưa nắm bắt được...
Cô Cil Gluyên (dân tộc Cơ Ho, Lâm Ðồng):Từ nhỏ, em đã rất
thích nghe bà ngoại hát ôru và kể chuyện ngày xưa. Em cũng thích biết
hát lả lông, biết múa xoang, biết đánh cồng chiêng. Thế là em nhờ bà em
và những người già trong buôn dạy cho, dần dần cũng biết, cũng làm theo
được. Nhưng trong lớp trẻ ở buôn làng em, không nhiều người biết đâu. Họ
thích xem ti-vi, thích hát nhạc mới. Cũng may, buôn em là buôn làm du
lịch văn hóa bản địa nên ít nhiều những người trẻ như em còn có chỗ mà
tham gia múa hát theo cách ông bà xưa. Mà làm du lịch thì tụi em cũng có
thêm thu nhập nhờ biểu diễn phục vụ du khách và bán hàng thổ cẩm lưu
niệm...
Nhạc sĩ Linh Nga Niê Kđăm (dân tộc Ê Ðê, Ðác Lắc):Phải làm
cho người dân tự ý thức được rằng mình cần bảo tồn những gì, sau nữa là
giúp cho họ sinh kế bằng văn hóa truyền thống của họ. Văn hóa truyền
thống nói chung, nghề thủ công nói riêng, phải làm cho nó trở thành sản
phẩm du lịch, phải để nó giúp đồng bào sống đã, thì mới tính đến chuyện
bảo tồn và phát huy bản sắc. Ðồng thời, tôi cho rằng, người làm văn hóa
bản địa, tốt nhất phải là người dân sống trong không gian văn hóa đó.
Phải có những nhà nghiên cứu bản địa am hiểu, khôi phục những gì bà con
muốn, chứ không thể chủ quan áp đặt họ.
PGS-TS Ðỗ Hồng Kỳ (Phó Viện trưởng Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên):
Văn hóa truyền thống Tây Nguyên ang mất rất nhanh, nhưng đó lại là thực
tế khách quan không cưỡng lại được. Bởi, dù người Tây Nguyên có một nền
văn hóa giàu bản sắc nhưng họ lại tự ti, đi lấy những khuôn mẫu của
người Kinh để làm theo. Nguyên nhân của sự biến đổi, là phương thức sản
xuất đã thay đổi. Thực tế rất đáng buồn nhưng không phải không có cách
gìn giữ. Ðảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến việc đầu tư cho phát triển
Tây Nguyên trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện một số dự án, chương trình, ở một số
nơi còn thiếu khoa học nên mang lại hiệu quả không cao...
PGS-TS Lương Hồng Quang (Phó Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật VN): Bảo
tồn văn hóa gắn với cộng đồng, tạo sinh kế cho người dân. Ðó là cách
bảo tồn sống, bảo tồn động, dựa trên điểm mấu chốt quan trọng là gắn với
sinh kế của người dân, lấy văn hóa của các tộc người để phát triển.
Việc bảo tồn gắn với sinh kế, sinh nhai đòi hỏi sự tham dự của các cộng
đồng đó. Họ phải chủ động, sẵn sàng, tự nguyện thấy việc này là cần
thiết. Việc đầu tư phải đồng bộ và làm trong quá trình dài. Những người
làm văn hóa phải được đào tạo cơ bản, hiểu biết sâu và tâm huyết với
công việc của mình.
Theo: Nhân Dân cuối tuần