Hà Nội là nơi
tập trung đông các làng nghề truyền thống. Mỗi làng nghề đều chứa đựng
những nét văn hóa độc đáo, là biểu tượng cho sự khéo léo, tinh thần sáng
tạo, cần cù lao động của mỗi người dân Việt Nam. Các làng nghề cổ
truyền ở Hà Nội được lưu giữ đến ngày nay đã và đang tô thắm thêm bức
tranh làng nghề truyền thống đất kinh kỳ nghìn năm văn hiến.
Độc đáo làng nghề Thủ đô
Làng nghề Xuân La, xã
Phượng Dực, huyện Phú Xuyên (Hà Nội) là làng nghề làm tò he duy nhất ở
Việt Nam còn tồn tại cho đến ngày nay. Ở đây, người dân trong làng hầu
như ai cũng biết biến khối bột gạo vô tri thành những con tò he ngộ
nghĩnh, sinh động. Muốn làm ra một con tò he thì người nghệ nhân cần
phải có tình yêu thương trẻ nhỏ thì con tò he sẽ đẹp và có hồn.
Với những người nông
dân ở làng Đào Thục, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, họ vừa là nghệ nhân,
vừa là nghệ sĩ biểu diễn rối nước. Gắn bó với những con rối từ khi còn
nhỏ, theo chân các bậc tiền bối đi lưu diễn khắp nơi, ông Ngô Minh
Phong, Phó phường rối nước Đào Thục, tâm sự: “Phường rối chúng tôi hiện
có khoảng 25 người hoạt động thường xuyên, trong đó có cả các cụ già đến
các cháu 15, 16 tuổi. Chúng tôi chủ yếu làm nông nghiệp, khi làm quân
rối thì làm theo ý tưởng người nông dân nên trông các quân rối cũng hao
hao giống người nông dân”.
![](http://image.qdnd.vn/Upload/nguyenthao/2013/7/1/7279750920130701161943343.JPG) |
Các thành viên trong gia đình nghệ nhân Quách Văn Hiểu (làng Thượng, phường Định Công) cùng chế bạc. |
So với các làng nghề
truyền thống khác, làng Thượng, phường Định Công, quận Hoàng Mai với
nghề đậu bạc là một trong những làng nghề cổ nhất của đất Thăng Long
nghìn năm tuổi. Hiện nay, cả làng chỉ còn duy nhất hai gia đình nghệ
nhân Quách Văn Trường và Quách Văn Hiểu là vẫn gắn bó trọn đời với bạc,
trọn tình với nghề quý của quê hương. Nghệ nhân Quách Văn Hiểu chia sẻ:
"Trước đây, ở phường chỉ có người dân làng Thượng làm nghề kim hoàn,
nhà nào cũng sản xuất, nhiều năm phục vụ cho các triều đình vua quan, kể
cả triều đình nhà Nguyễn, hay mang hàng đi các nơi. Bằng sự tỷ mỷ, khéo
léo của đôi bàn tay, người thợ trong làng đã gắn kết các sợi bạc xe lại
với nhau, tạo thành những bông hoa, cánh bướm... trên đồ trang sức, đồ
trang trí, khung tranh ảnh... Để có được một sản phẩm bạc đậu, người thợ
phải mất tới hàng chục ngày công với những thao tác công phu, tỷ mỷ.
Nghề đậu bạc biểu trưng cho sự tinh xảo của nghề thủ công mỹ nghệ truyền
thống, hoàn toàn làm thủ công và không thể thay thế bằng máy móc".
Chung tay giữ lấy nghề
Trước nguy cơ nghề
truyền thống bị mai một, những nghệ nhân làng Xuân La tâm huyết, say
nghề đã tìm tòi, sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo, góp phần quảng bá
hình ảnh làng nghề. Trong đó, phải kể đến 3 sản phẩm con rồng, con rùa
và mâm ngũ quả được xác lập kỷ lục Việt Nam trong dịp kỷ niệm Đại lễ
1000 năm Thăng Long - Hà Nội và một số sản phẩm phục vụ ngành du lịch...
Nếu ngày xưa, các nghệ nhân trong làng nặn tò he bằng bột gạo nếp và
trẻ em chỉ có thể chơi được 1 đến 2 tuần là hỏng, thì hiện nay, các nghệ
nhân sử dụng loại đất Nhật Bản nặn những hình ngộ nghĩnh trên đầu bút
chì để các bé có thể viết, trao tặng nhau hay mang ra nước ngoài.
Còn ở làng Đào Thục,
xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, những người nghệ sĩ nông dân như ông Phong
lại khôi phục nghề tổ bằng cách đi biểu diễn khắp mọi miền. Năm 2002,
phường rối nước Đào Thục được chính thức thành lập, hoạt động của đoàn
đã ổn định, biểu diễn thường xuyên khoảng 20 buổi/tháng phục vụ người
dân địa phương và du khách thập phương. Dù không có lương từ múa rối,
nhưng chính sự mến mộ của du khách khắp trong và ngoài nước là nguồn
động viên những nghệ nhân rối nước gắn bó với nghề. Riêng với nghề đậu
bạc ở làng Thượng, phường Định Công, nghệ nhân Quách Văn Hiểu dự định
vào tháng 8 tới sẽ tổ chức lớp học truyền lại nghề chế tác kim hoàn cho
những ai đam mê và muốn theo nghề. Đây là tâm nguyện của nghệ nhân Quách
Văn Hiểu với mong muốn nghề tổ của làng không bị mai một.
Những nỗ lực nêu trên
của các nghệ nhân tâm huyết với nghề thật đáng trân trọng. Song, trong
xu thế hội nhập hiện nay, việc bảo tồn và phát huy làng nghề thủ công
truyền thống không chỉ cốt lưu giữ dấu ấn văn hóa mang đậm bản sắc dân
tộc, mà còn phải tính đến việc nâng cao mức sống của những người gắn bó
với nghề. Muốn vậy, cùng với việc đầu tư, hỗ trợ hợp lý cho các làng
nghề, các ngành chức năng cần có biện pháp tuyên truyền, quảng bá,
khuyến khích những nghệ nhân và thế hệ trẻ tiếp nối, giữ gìn nghề.
Theo: QĐND