|
Theo
Bộ NN&PTNT, cơ cấu sản phẩm mây tre hiện chưa hợp lý, có tới 95%
tổng giá trị sản phẩm của ngành này tập trung vào nhóm hàng truyền
thống, nhóm sản phẩm mới chỉ chiếm 5%. Định hướng từ nay đến năm 2020 và
2030, cơ cấu sản phẩm của ngành chế biến tre sẽ là 30% cho các sản phẩm
truyền thống và 70% sản phẩm thuộc nhóm các sản phẩm mới như tre ép
khối, ván sàn tre, tấm lót đường từ tre… Giá trị XK mặt hàng, mây, tre
kỳ vọng sẽ đạt mức 1 tỷ USD vào năm 2020. Trong đó, giá trị các sản phẩm
chế biến công nghiệp chiếm khoảng 700 triệu USD, còn lại thuộc về nhóm
các mặt hàng truyền thống.
|
|
XK dưới 3% thị phần thế giới
Theo số liệu của Cục XNK (Bộ Công Thương),
sản phẩm mây tre Việt Nam đã XK sang hơn 120 quốc gia, vùng lãnh thổ
trên thế giới, nhất là các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Úc,
Hàn Quốc, Anh, Pháp, Tây Ban Nha,… Trong đó, thị trường Mỹ chiếm đến
trên 19% thị phần và thị trường Nhật Bản cũng chiếm gần 17% thị phần.
Bình quân mỗi năm, kim ngạch XK sản phẩm chế biến từ mây, tre đạt khoảng
200 triệu USD. Riêng 11 tháng đầu năm 2013, kim ngạch XK mặt hàng này
đạt trên 207 triệu USD. Tuy nhiên, lượng mây, tre Việt Nam XK còn rất
nhỏ, chỉ chiếm chưa đến 3% thị phần của thị trường thế giới.
Hiện nay, thị trường tre, luồng thế giới
đang có tính cạnh tranh cao. Báo cáo của Chương trình tre Mekong cho
thấy, thị trường tre, luồng thế giới năm 2013 đạt xấp xỉ 15 tỷ USD và dự
đoán đến năm 2017 sẽ đạt 17 tỷ USD. Trong đó, các sản phẩm truyền thống
đang bị canh tranh gay gắt nên tốc độ tăng trưởng có chiều hướng chậm
lại. Nhóm các sản phẩm mới, sản phẩm chế biến công nghiệp đang có tiềm
năng phát triển. Đây là cơ hội lớn cho các DN chế biến tre công nghiệp.
Ông Nguyễn Tôn Quyền - Tổng thư ký Hiệp
hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cho biết: Nước ta có 88 DN chế biến tre, trúc
với năng lực chế biến 250.000 tấn/năm, 40 công ty chế biến mây, công
suất 4.000 m3/năm. Tham gia chế biến còn có 713 làng nghề mây tre, tạo
việc làm cho gần 400.000 lao động. Tuy nhiên, các DN trong nước chưa nắm
vững thị hiếu và nhu cầu của nước NK. Bằng chứng là, trong khi các nước
phát triển thường ưa chuộng các sản phẩm đơn giản, có tính hình khối
thì các sản phẩm thủ công và thủ công mỹ nghệ Việt Nam thường rườm rà,
nhiều chi tiết và lắm góc cạnh, uốn lượn nên khó có thị trường bền vững.
Bên cạnh đó, Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu chung cho các sản
phẩm tre Việt Nam, cũng như các thương hiệu riêng cho từng loại sản
phẩm, từng DN nên khó cạnh tranh được với các quốc gia khác.
Thay đổi cơ cấu sản phẩm
Theo ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội
Làng nghề Việt Nam: Việt Nam đang thiếu chiến lược phát triển bền vững
cho các ngành nghề thủ công mỹ nghệ nói chung, nhất là mặt hàng mây, tre
thua kém nhiều nước trong khu vực. Trên thực tế, nhiều chính sách phát
triển các mặt hàng mây, tre, nứa, lá đề ra thiếu thực tế, không sát với
sản xuất gây bức xúc cho DN. Đặc biệt, phong trào phát triển “mỗi làng
một sản phẩm - OVOP” (nhóm hàng thủ công nông nghiệp) còn mang tính hình
thức, phong trào và mạnh ai nấy làm.
“Do phát triển tự phát, phân tán, mẫu mã
đơn điệu, công nghệ lạc hậu, nhiều làng nghề truyền thống của Việt Nam
không thể cạnh tranh với thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, do thiếu vốn,
thị trường bấp bênh, nguồn nguyện liệu không ổn định, lực lượng lao động
trẻ tìm nghề có thu nhập cao hơn nên không ít làng nghề rơi vào sản
xuất cầm chừng”, ông Dần nhấn mạnh.
Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn
Trọng Thừa, Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và
nghề muối (Bộ NN&PTNT) bổ sung: Phát triển mây, tre hiện còn gặp khó
về chính sách. Mặc dù thời gian qua, một số chính sách liên quan đến
phát triển mây, tre được ban hành như: Bộ NN&PTNT có Đề án bảo tồn
và phát triển lâm sản ngoài gỗ giai đoạn 2006-2020; Thủ tướng Chính phủ
đã có Quyết định số 11/2011/QĐ-TTg về khuyến khích phát triển ngành mây
tre, nhưng hiện Nhà nước vẫn chưa có chính sách riêng hỗ trợ cây mây
tre, mà vẫn chỉ lồng ghép trong các văn bản chính sách nông nghiệp
chung.
Theo ông Thừa, để tham gia vào thị trường
thế giới một cách mạnh mẽ và tương xứng với tiềm năng, ngành chế biến
mây, tre cần phải nhanh chóng thay đổi cơ cấu sản phẩm một cách hợp lý.
Trong tương lai, cơ cấu sản phẩm của ngành chế biến mây, tre nên là 30%
cho các sản phẩm truyền thống và 70% sản phẩm thuộc nhóm các sản phẩm
mới như tre ép khối, ván sàn tre, tấm lót đường từ tre,… “Với cơ cấu sản
phẩm này, chẳng những các sản phẩm mây, tre sẽ nhanh chóng tiếp cận
được các thị trường tiềm năng, nhất là các thị trường của các nước đang
phát triển mà số lượng và giá trị của các sản phẩm này cũng nhanh chóng
được tăng lên”, ông Thừa nói.
Nhiều ý kiến cho rằng, để phát triển sản
xuất và kinh doanh XK mây, tre bền vững trước hết Nhà nước định hướng
tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, tăng cường đào tạo nghề, xây
dựng đội ngũ nghệ nhân. Chính quyền địa phương cần tạo điều kiện, hỗ trợ
cần thiết để các DN liên kết, liên doanh xây dựng vùng nguyên liệu
(giao đất lâm nghiệp ổn định và lâu dài, tham gia các chương trình/dự án
trồng rừng sản xuất…) để ổn định sản xuất. Về phía các DN, cần tự xây
dựng chiến lược thị trường, đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, chủ động
tìm hiểu thị trường để đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với thị hiếu người
tiêu dùng. Bên cạnh các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật
Bản… cần tìm kiếm thị trường tiềm năng mới.
Theo: haiquan