Ninh Phúc tự, tức chùa Bút Tháp ở xã Đình Tổ
(Thuận Thành - Bắc Ninh) không chỉ là một danh lam cổ tích đặc biệt của
nước ta, mà trong mỗi tháp đá, sách đồng còn ẩn chứa những bí mật khó có
thể bóc tách và lý giải thỏa đáng.
![](http://static.anninhthudo.vn/uploaded/152/2016_08_04/bao-nghiem-1.jpg?width=500)
Trong quần thể cổ tích Ninh Phúc tự, tháp đá Báo Nghiêm được giới học
giá chú ý hơn cả. Với lối kiến trúc tựa ngọn bút khổng lồ vươn giữa
trời cao thì những hình chạm phù điêu và nghĩa lý của ngọn tháp cổ này
thực sự là điều bí ẩn.
![](http://static.anninhthudo.vn/uploaded/152/2016_08_04/bao-nghiem-4.jpg?width=500)
Phù điêu chạm hình thú trên tháp
Nơi Trạng nguyên trụ trì, Hoàng thái hậu tu hành
TS.Lê
Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh ngay từ khi bước vào đường sử
học đã rất chú ý đến Ninh Phúc tự. Ông cho biết, đây là một trong những
ngôi chùa cổ lâu đời và có quy mô lớn. Đến nay, di tích chùa vẫn còn
khá nguyên vẹn theo lối kiến trúc xưa với vẻ đẹp mộc mạc, trang nghiêm.
Ninh Phúc tự từng được biết đến với nghệ thuật kiến trúc đặc sắc,
phong cảnh hữu tình và sở hữu pho tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt bằng
gỗ lớn nhất Việt Nam. Cổ tự tọa lạc trong một khu đất cao bên bờ sông
Đuống và dù đã trải qua mấy trăm năm sương gió nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp
nguyên vẹn thuở xưa.
![](http://static.anninhthudo.vn/uploaded/152/2016_08_04/bao-nghiem-5.jpg?width=500)
Rất nhiều khách tham quan ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của Bút Tháp
Ông Nga cho biết, mặc dù là một ngôi chùa cổ và rất nổi tiếng của xứ
Kinh Bắc nhưng để xác định chính xác chùa có từ bao giờ thì chưa có nhà
nghiên cứu nào đưa ra được tài liệu và căn cứ thỏa đáng. Một trong
những tư liệu sớm viết về Ninh Phúc tự chính là sách “Địa chí Hà Bắc”
khẳng định chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư
Huyền Quang, người đỗ Trạng nguyên năm 1272 đã trụ trì tại đây.
Thiền sư Huyền Quang vốn tên thật là Lý Đạo Tái, sinh năm 1254 người
huyện Gia Bình (Bắc Ninh). Theo truyền thuyết “Tam tổ thực lục”, mẹ của
thiền sư Huyền Quang là Lê Thị hay đến chùa Ngọc Hoàng cầu nguyện vì
tuổi đã 30 mà chưa có con.
Đầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ
thấy “các tòa trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim
Cương Long Thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ Tôn giả A - nan - đà,
bảo: “Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và phải nhớ lại duyên
xưa”.
Năm ấy Lê Thị sinh con, đặt tên là Lý Đạo Tái. Lớn lên Đạo Tái có
dung mạo dị thường, học giỏi đỗ cả thi hương, hội rồi đỗ đệ nhất giáp
tiến sĩ (Trạng nguyên) khoa thi năm 1272 và làm quan đến chức Hàn Lâm.
Một hôm, Đạo Tái cùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện
Phượng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh. Đạo Tái liền nhớ lại
“duyên xưa” và xin xuất gia thụ giáo. Ông được cử làm thị giả của Trúc
Lâm Đầu Đà và được ban pháp hiệu là Huyền Quang.
Sau, ông theo lời phó chúc của Trúc Lâm trụ trì chùa Vân Yên trên núi
Yên Tử. Vì đa văn bác học, tinh thông đạo lý nên tăng chúng đua nhau
đến học rất đông. Niên hiệu Đại Khánh thứ tư năm 1317, ông được Pháp Loa
truyền y của Trúc Lâm và tâm kệ.
Sau khi Pháp Loa tịch, Huyền Quang kế thừa làm Tổ thứ ba của thiền
phái Trúc Lâm, nhưng vì tuổi đã cao nên ông giao phó trách nhiệm cho
Quốc sư An Tâm. Huyền Quang viên tịch năm Giáp Tuất 1334, thọ 80 tuổi.
Vua Trần Minh Tông sắc thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại và đặc phong
Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
Lần giở sử tích chùa Bút Tháp và đối chiếu với những sử liệu cũ, ông
Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh khẳng định, từ thế kỷ 17,
chùa đã trở nên rất nổi tiếng với sự trụ trì của Hòa thượng Chuyết
Chuyết, người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) sang Việt Nam năm 1633. Năm
1644, Hòa thượng Chuyết Chuyết viên tịch và được vua Lê phong là “Minh
Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư”. Người kế nghiệp trụ trì chùa
Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Chuyết Chuyết.
Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc đã rời bỏ cung
thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công
chúa Lê Thị Ngọc Duyên bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu
lại ngôi chùa, kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”.
Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Về cơ bản, quy mô và cấu trúc
của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời
kỳ này. Đến đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một ngọn
tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn
ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Kỳ quan tháp đá
Tháp Báo Nghiêm nằm trong khuôn viên chùa Bút Tháp thực sự là một
công trình kiến trúc tuyệt vời. Tuy nhiên, theo ông Nga có rất ít tư
liệu nói về việc xây dựng ngọn tháp đá nơi thờ Hòa thượng Chuyết Chuyết.
Ngọn tháp trông như cây bút khổng lồ vươn thẳng lên trời. Theo đo đạc,
tháp cao 13,5m với kết cấu 5 tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh. Ở
bên ngoài tầng đáy rộng hơn với mái hiên nhô ra; 4 tầng bên trên gần như
giống nhau với mỗi cạnh rộng 2m.
Năm góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ. Trong lòng tháp có một khoang
tròn đường kính 2,29m. “Ngoài kỹ thuật xây dựng đá, phần bệ tượng được
bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can. Riêng ở tầng
dưới cùng của tòa tháp có 13 bức phù điêu chạm đá các con thú”, ông Nga
cho biết.
Theo đánh giá của các nhà điêu khắc, tháp Báo Nghiêm thể hiện tài
ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của nghệ nhân thời xưa. “Tháp
Báo Nghiêm là công trình kiến trúc độc đáo. Ngoài ý nghĩa Phật giáo, thì
công trình thể hiện được tài năng và sự dụng công của nghệ thuật. Nhiều
phù điêu, hình họa cách điệu tạo nên dấu ấn riêng duy chỉ có ở Bút
Tháp. Nghệ thuật điêu khắc đá trên tháp Báo Nghiêm đã đạt đến trình độ
rất tinh xảo. Đặc biệt là các hình rồng chạm nổi có thần khí vi diệu”,
nhà điêu khắc Lê Đình Quỳ nhận xét.
“Bút Tháp là quần thể di tích đẹp và ý nghĩa nhân văn cao. Ngoài công
trình tháp Báo Nghiêm thì tòa “Cửu phẩm liên hoa” cũng vô cùng độc đáo.
Tòa làm bằng gỗ cao 9 tầng và có thể quay được mà không phát ra tiếng
động”, TS.Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh.