Con rùa đội bia Vĩnh Lăng dáng rất khỏe, đầu vươn cao như đang bơi về phía trước. Ảnh: Lê Hoàng.
Ngoài các hiện vật đồ đồng, bia đá Vĩnh Lăng là một trong số bảo vật
quốc gia tiêu biểu có xuất xứ Thanh Hóa. Bia Vĩnh Lăng (tức Lam Sơn Vĩnh
Lăng Bi) đặt ở phía tây nam khu chính điện Lam Kinh, cách mộ vua Lê
Thái Tổ khoảng 300 m.
Nhà bia Vĩnh Lăng nằm ở tây nam chính điện Lam Kinh, cách mộ Lê Lợi khoảng 300 m. Ảnh: Lê Hoàng.
Sử cũ chép, Lam Kinh xưa vốn là đất Lam Sơn, quê hương của anh hùng dân
tộc Lê Lợi, cũng là nơi khởi nguồn và căn cứ đầu tiên của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn. Sau 10 năm (1418-1428) cuộc kháng chiến chống giặc Minh
giành thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra vương triều Hậu Lê -
vương triều kéo dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với 360 năm.
Năm 1430, vua Lê Thái Tổ cho đổi vùng đất Lam Sơn thành Tây Kinh (hay
Lam Kinh). Từ đây Lam Kinh trở thành vùng đất được quan tâm đặc biệt của
các vua nhà Hậu Lê. Tháng 8 nhuận năm Quý Sửu (1433), vua Lê Thái Tổ
băng hà ở Đông Kinh - Thăng Long và được đưa về quê hương an táng, xây
lăng, dựng bia tại Vĩnh Lăng. Cũng từ đây các vua kế nghiệp cho xây dựng
Lam Kinh trở thành khu sơn lăng, nơi an táng nhiều vị vua và Thái Hoàng
Thái Hậu triều đại Lê Sơ.
Trong số bia đá còn lại ở Lam Kinh, Vĩnh Lăng là tấm bia tiêu biểu nhất,
điển hình cho kỹ thuật chế tác, điêu khắc, chạm trổ công phu và tỉ mỉ
đến từng chi tiết. Bia Vĩnh Lăng được các nhà nghiên cứu văn hoá đánh
giá là một trong những tấm bia thời Lê Sơ cổ, to và đẹp nhất Việt Nam
hiện nay.
Văn bia gồm hai phần, bia phía trên và tượng rùa phía dưới được làm bằng
đá trầm tích màu xám xanh có lẫn đốm trắng. Trên bề mặt rùa và bia còn
nhìn thấy nhiều vỏ của các loài nhuyễn thể. Bia rộng 1,94 m, cao 2,79 m,
dày 0,27 m; rùa có chiều dài 3,46 m, rộng 1,94 m, dày 0,90 m. Tổng
trọng lượng khoảng 18 tấn.
Phần văn bia là khối hình chữ nhật, được đặt trên lưng rùa, mặt trước
chính giữa được khắc hình vuông. Trong hình vuông khắc một hình tròn,
chính giữa hình tròn chạm rồng nổi 5 móng. Hai bên cạnh trán bia mỗi bên
chạm nổi hình một con rồng và hình tròn bên trong có rồng cuộn đầu vươn
cao.
Bia Vĩnh Lăng được tạc bằng đá xanh trầm tích nguyên
khối, nặng khoảng 18 tấn. Trải qua gần 700 năm nhưng văn bia còn nguyên
vẹn. Ảnh: Lê Hoàng.
Xung quanh diềm bia có hai đường chỉ nổi chạy song song với nhau nối từ
đỉnh xuống đế bia, giữa hai đường chỉ bên trong trang trí 9 hoa văn hình
nửa lá đề. Trong mỗi nửa lá đề được khắc một hình rồng nổi, có vẩy,
thân uốn lượn mềm mại, đầu rồng hướng vươn lên đỉnh bia, miệng nhả ngọc.
Khoảng cách giữa các hình lá đề được chạm khắc xen kẽ hình hoa cúc dây…
Mặt trước bia khắc khoảng 750 chữ Hán theo lối chữ Chân, do Nguyễn Trãi
soạn. Mặt sau giữa trán khắc hình chữ nhật, hai bên mỗi bên khắc một
hình rồng, thân dài, trơn, không có vảy, đang uốn lượn, đầu ngẩng cao,
chầu vào. Dưới đế bia là một con rùa lớn, trong tư thế đang bơi, đầu
vươn cao, lưng nhô, lộ rõ 4 chân và 6 móng to khoẻ, trong 6 móng có móng
thứ 6 bị đục lõm vào. Đuôi rùa to, vắt ngược lên lưng uốn lượn mềm
mại.
Toàn văn bia dù ngắn gọn, súc tích nhưng đã mô tả đầy đủ về thân thế sự
nghiệp và công đức của vua Lê Thái Tổ, đúc kết đường lối đấu tranh khéo
léo của nghĩa quân Lam Sơn trong suốt 10 năm trường kỳ kháng chiến đánh
đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho dân tộc.
Văn bia còn nói lên lòng khoan dung, độ lượng của Thái Tổ Cao Hoàng đế
Lê Lợi đối với quân giặc khi bại trận; cho thấy đường lối ngoại giao của
ông đối với các nước lân bang. Bởi vậy, các sử gia đánh giá, bia Vĩnh
Lăng có ý nghĩa rất lớn về mặt lịch sử, là chứng cứ gốc phục vụ cho công
tác nghiên cứu khoa học cũng như giáo dục truyền thống yêu nước.
Bia Vĩnh Lăng còn được xem là tài liệu quý khi nghiên cứu về nghệ thuật
trang trí, điêu khắc thời Lê Sơ. Nghệ thuật điêu khắc bia thời này đã kế
thừa được tinh hoa của nền điêu khắc Lý - Trần và nghệ thuật dân gian
truyền thống.
Dưới triều Lê Sơ tư tưởng Nho giáo được đề cao. Hoàng đế Lê Lợi và các
vị vua kế nghiệp đã dùng học thuyết Nho giáo làm công cụ tư tưởng để
điều hành đất nước cũng như xây dựng nền văn hoá dân tộc. Trong quan
niệm của Nho giáo, vua chính là con trời, thay trời hành đạo, rồng là
biểu tượng về vua với quyền lực tối thượng. Bên cạnh hình rồng, bia Vĩnh
Lăng còn trang trí các hoa văn như hoa cúc, lá đề, sóng nước… là loài
cây gần gũi với đời sống người Việt bấy giờ.
Theo ông Vũ Đình Sỹ, Phó trưởng Ban quản lý di tích lịch sử Lam Kinh,
đánh giá: “Bia Vĩnh Lăng là dấu nối giữa thời trước và thời sau, là điểm
mở đầu cho giai đoạn phát triển mới của nền nghệ thuật điêu khắc và
trải qua những chuyển biến liên tục để đến bia vua Lê Thánh Tông, Hoàng
hậu Ngô Thị Ngọc Giao đã tiến tới định hình cho một phong cách nghệ
thuật mới hoàn chỉnh - nghệ thuật thời Lê Sơ”.
Đáp ứng các tiêu chí độc bản, hình thức độc đáo và có giá trị lịch sử
đặc biệt, tháng 12/2013, bia Vĩnh Lăng (tức Lam Sơn Vĩnh Lăng Bi hay bia
Vĩnh Lăng Lam Sơn) được công nhận là bảo vật quốc gia.
Đại Việt sử ký toàn thư chép, Lam Kinh được xây dựng vào năm 1433, nhưng
cũng cùng năm đó, điện Lam Kinh bị cháy. Năm 1448, vua Lê Nhân Tông
xuống chiếu cho Thái úy Lê Khả và Cục bách tác làm lại điện miếu Lam
Kinh. Lam Kinh được tiếp tục xây dựng chưa đầy một năm, đến tháng 2/1449
công việc hoàn thành.
Quy mô công trình kiến trúc Lam Kinh được ghi trong Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú như sau: “Điện Lam Kinh đằng sau gối
vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biếc, rừng rậm
um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Thiệu Lăng của Lê Thái Tông và các
lăng của vua nhà Lê đều ở đây cả. Lăng nào cũng có bia. Sau điện lấy Tây
hồ làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn, nước các ngả đều
chảy cả vào đó. Có con sông phát nguyên từ hồ ấy, chạy vòng trước mặt,
lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông rất thích mắt nhưng
không ai dám lấy trộm. \
Lại có lạch nước nhỏ, chảy từ bên tay phải qua trước điện, ôm vòng
lại như cánh cung. Trên lạch có cầu giống như Bạch Kiều ở giảng đình
điện Vạn Thọ Đông Kinh, đi qua cầu mới tới điện. Nền điện rất cao, hai
bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước phẳng, giống như trước điện nhà
vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi Môn có hai con chó ngao bằng đá, tục truyền
là rất thiêng. Điện làm ba ngôi liền nhau, kiểu chữ Công, mẫu mực theo
đúng kiểu các miếu ở kinh sư. Theo từng bậc mà lên, rồi từ đó trông
xuống thì thấy núi khe hai bên Tả, Hữu, cái nọ, cái kia vòng quanh thật
là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp".
Tuy nhiên, trải qua gần 6 thế kỷ với nhiều thăng trầm lịch sử, cùng với
sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Lam Kinh chỉ còn 6 ngôi mộ và 5 tấm bia
đá. Hiện tỉnh Thanh Hóa đầu tư hàng trăm tỷ đồng trùng tu tôn tạo khu di
tích này nhằm phục vụ hoạt động du lịch và nhu cầu văn hóa tâm linh.
Theo tienphong.vn