Chúng
tôi ghé thăm nghệ nhân Ngô Thị Đan khi hay tin bà đang chuẩn bị một số tác phẩm
cho triển lãm cho một triển lãm mới. Một Hà Nội thâm trầm cổ kính sẽ đến với
công chúng qua nghệ thuật đúc đồng của một làng nghề danh bất hư truyền có tuổi
đời gần 500 năm…
Nghệ nhân Ngô Thị Đan
Duyên nghề…
Ngôi nhà nhỏ của nữ nghệ nhân Ngô Thị Đan nằm lọt thỏm trong ngõ Nam Tràng -
không gian nơi đây vẫn giữ được nét trầm mặc, yên bình của một làng nghề truyền
thống của xứ kinh kỳ mà nghệ thuật kết tinh trong tĩnh lặng.
Bà Đan được tiếp xúc và học nghề khi về làm dâu họ Nguyễn Văn, là dòng họ có
tiếng nghề nhất làng Ngũ Xã lúc bấy giờ. Tính đến nay đã hơn 30 năm nhưng đối
với nhiều người, bà Đan vẫn là hiện tượng lạ của làng nghề.
Khoảng những năm 70, khi chưa được truyền nghề, bà Đan đã tự nặn những bộ binh
khí bằng đất sét và tạc tượng đòi hỏi kỹ thuật cao, thành công vượt xa những
thợ bậc 6 lúc bấy giờ. Sự khéo léo của người phụ nữ này khiến cụ Nguyễn Văn Tùy
- thợ cả của làng cũng phải sửng sốt. Sau nhiều lần mục sở thị cô tự tay làm nên
những sản phẩm đó, cụ quyết định truyền nghề cho cô dâu dòng họ Nguyễn Văn.
Bà Đan nói: “Nghề đúc đồng đòi hỏi người thợ ngoài sự kiên trì, tỉ mỉ, cẩn
trọng thì cần phải có sức khỏe dẻo dai, đôi bàn tay rắn chắc mới có thể hoàn
thàn các công đoạn: đúc, hun, mài, ám, đục, khảm…vậy nên để theo được nghề thì
nam giới đã khó, mình là phụ nữ thì phải rất yêu thì mới bám nghề được”.
Bà Đan nhớ lại: “Hồi những năm 86, kinh tế khó khăn, đồng bị nhà nước liệt vào
những mặt hàng cấm sản xuất, thị hiếu người tiêu dùng với đồ đồng thay đổi, cả
làng nghề chuyển sang đúc đồ nhôm gia dụng”. Khó khăn là vậy nhưng lòng say mê
với nghề không hề suy chuyển, bà làm những đồ vật bằng đồng nhỏ xíu, đem bán ở
chợ Đồng Xuân.
Cứ như vậy người phụ nữ yếu đuối ấy đã gắn bó và đi suốt những thăng trầm với
nghề đến nay và trở thành nữ nghệ nhân duy nhất của làng Ngũ Xã.
Có một kỉ niệm trong nghề mà bà Đan nhớ mãi đó là vào năm 1991, một nhà buôn đồ
cổ đã “chết đứng” khi thấy chiếc lư đồng giả cổ được bà bán với giá 60 nghìn
đồng, mà trước đó ông ta mua lại của một nhà buôn khác với giá 800 USD. Nước
đồng giả cổ với màu xanh rêu tinh tế trong khe rãnh được bà sáng tạo quá đỗi tự
nhiên đã khiến các tay buôn đồ cổ sành sỏi nhất cũng không thể phát hiện được.
Sau lần ấy, tay nhà buôn đặt hàng bà sản xuất những lư, triện, tượng giả cổ với
giá hời nhưng bà từ chối…
Nữ nghệ nhân tâm sự: “Tiếng chuông Trấn Vũ là niềm tự hào của làng đúc đồng
Ngũ Xã, và cũng là niềm đam mê từ khi bà bước vào nghề đúc đồng. Tuy nhiên để
tiếp bước truyền thống ấy lại không hề đơn giản. Để đúc chuông có độ ngân vang
như ý thì phải chọn đồng và thiếc nguyên chất rồi pha chế theo công thức bí
truyền. Nhưng điều quan trọng là người thợ phải tĩnh tâm để sáng tạo và thăng
hoa. Có như vậy người nghe tiếng chuông đó mới có được cảm giảm thư thái, thanh
thản, đánh thức được sự hướng thiện trong lòng người”.
Trăn trở làng nghề
Với những công lao đóng góp vào giữ gìn và lưu truyền nghề truyền thống, năm
1999 bà Đan được chương trình nghệ thuật Đông Dương - Hội Mỹ thuật Việt Nam và
hội đồng TW Liên minh, các hợp tác xã Việt Nam tặng danh hiệu “Bàn tay vàng” và
năm 2009, UBND TP Hà Nội phong tặng danh hiệu Nghệ nhân.
Một trong những niềm tự hào của Ngũ Xã có thể kể đến quả chuông cao 1,5m và pho
tượng Quan Thánh đền Trấn Vũ. Tượng được hun màu đen bóng, cao 3,72m, nặng
khoảng 3000kg. Tượng A-Di-Đà tại chùa Thần Quang là một công trình tuyệt mỹ,
pho tượng đúc liền đòi hỏi tay nghề, kỹ thuật cực cao, tượng nặng tới 10 tấn,
cao gần 4m.
Mỗi tác phẩm đều toát lên những nét tinh xảo, mềm mại, uyển chuyển mang vẻ đẹp
thầm kín, càng nhìn càng thấy quí.
Tuy nhiên, nỗi trăn trở lớn nhất với bà Đan hiện nay là truyền thống làng nghề
đang ngày càng mai một, làng nghề với truyền thống 500 năm có nguy
cơ bị biến mất nếu không có kế hoạch bảo tồn phát triển.
Hiện nay, nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt không thu thuế với nghề
đồng nhưng do đặc thù lao động thủ công vất vả, thu nhập không cao, ít thị
trường nên nhiều người đã không còn gắn bó với đồng.
Nằm trong những nỗ lực để duy trì và phát triển là làm mới và phong phú các sản
phẩm, tiến tới mở rộng thị trường tiêu thụ, bà đã cho mời một số nghệ nhân chạm
bạc tại Thái Bình lên để cùng phối hợp sản xuất. Ngoài các sản phẩm phục vụ cho
đời sống tâm linh thì hiện cơ sở bà cũng cho ra các bức tranh gốc cổ thụ đúc
đồng chạm bạc, tranh đồng quê, tranh ngũ phúc… nhằm đưa nghệ thuật đúc đồng Ngũ
Xã đến gần với cuộc sống đời thường hơn.
Theo CAO