“Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong. Màu dân
tộc sáng bừng trên giấy điệp…”. Đó là những câu thơ đầy tự hào mà thi sĩ
Hoàng Cầm dành tặng cho dòng tranh dân gian Đông Hồ nằm nghiêng nghiêng
bên dòng sông Đuống lấp lánh.
Tìm về vùng đất sản sinh ra dòng tranh ấy ở thôn Đông Khê, xã Song
Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, làng tranh xưa giờ tấp nập mưu
sinh và làm giàu với nghề làm hàng mã.
Lẫn trong ngồn ngộn những nhà lầu, xe hơi, quần áo, mũ đủ sắc màu mã
dành cho thế giới âm ty, tranh dân gian Đông Hồ “Đám cưới chuột, Gà lợn,
Hứng dừa…” sau nhiều biến thiên vẫn cứ có
chỗ đứng. Tất cả là nhờ có những nghệ nhân làm tranh vẫn “sống
chết”, thiết tha quyết giữ lại nghề truyền thống của cha ông và giữ lại
sắc Việt cho đời sau.
Theo thống kê sơ bộ, dòng tranh Đông Hồ hiện tại chỉ còn 20 người
thực hành nghề và 4 nghệ nhân truyền dạy. Trong số đó phải kể tới cô
Nguyễn Thị Oanh – nữ nghệ nhân duy nhất vừa được nhận danh hiệu nghệ
nhân tranh dân gian Đông Hồ cuối năm 2014.
Vẽ tranh từ thưở còn thơ
Nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh sinh năm Canh Tý, hơn 50 tuổi nhưng đã có
trên 40 năm gắn bó với những nét vẽ mộc mạc của tranh Đông Hồ. Cô Oanh
chính là con dâu của nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam – người có công phục dựng
dòng tranh dân gian Đông Hồ năm xưa.
|
Nữ nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh
|
Năm 12, 13 tuổi, cô bé Oanh vì yêu thích những nét vẽ điêu luyện
trên tờ giấy điệp của mẹ liền xin ra hợp tác xã tranh dân gian Đông Hồ
làm lao động phụ. Lớn thêm một chút, cô tố nữ Oanh trở thành lao động
chính và con dâu của nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam – chủ nhiệm hợp tác xã
tranh dân gian Đông Hồ ngày ấy. Và nhờ có sự truyền dạy về kỹ thuật làm
tranh và vẽ tranh Đông Hồ của bố chồng nên ngòi bút
vẽ của cô Oanh ngày càng tiến bộ.
Nhớ lại thời vàng son của dòng tranh dân gian Đông Hồ, cô Oanh chẳng
khỏi bùi ngùi. Ngày ấy, tổ tranh làm ăn phát đạt và có hẳn một phiên
chợ tranh. Những tập tranh Đông Hồ ra tới đâu bán hết veo tới đó khiến
cho người cầm bút thăng qua hơn trong từng nét vẽ. Cứ “nửa đêm giờ tí
canh ba” sau khi đã chằng buộc tranh chắc chắn trên gác ba ga, cô Oanh
lên chiếc xe đạp chở tranh đi bán ở chợ đường xa. Con đường đê sông
Đuống có chỗ gập ghềnh, chỗ ổ gà ổ voi nên có mấy lần ngã dúi dụi, thậm
chí tranh còn rơi vào vũng nước ướt nhòe cả màu.
|
Một bức tranh dân gian Đông Hồ do chính tay nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh vẽ
|
Dịp Tết đến Xuân sang, chợ tranh lại rộn ràng hơn. Tranh Vinh hoa –
Phú quý, tranh, Hứng dừa, Đám cưới chuột, Cá chép trông trăng… có mặt ở
trong mỗi gia đình, bừng lên sắc Việt. Thậm chí tranh Đông Hồ vượt hàng
ngàn cây số sang tận Đông Âu và trở thành thị trường chính mang lại sự
ổn định cho làng tranh. Song, đến những năm 1990, tranh Đông Hồ không có
nơi tiêu thụ, sản xuất tranh đình đốn.
Năm 1992, bố chồng cô Oanh là cụ Nguyễn Hữu Sam chuyển xưởng tranh
về nhà. Cô Oanh cùng chồng và các con tham gia vào giữ gìn nghề làm
tranh. Nhiều năm trở lại đây, khi người làng Mái tấp nập với giấy màu,
với tre làm hàng mã, có nhà thành tỉ phú thì ba thế hệ gia đình của nghệ
nhân Oanh vẫn thủy chung với nghề của cha ông. Khi người ta vứt hết
những bản khắc gỗ tranh Đông Hồ cổ thì gia đình cô xin về và hiện tại
còn lưu giữ rất nhiều bản có niên đại hơn 100 năm.
Cô Oanh cũng bộc bạch: “Trước kia, khi làm nghề nhiều năm nhưng cô
thường “nấp bóng” giới thiệu những tác phẩm của mình cho bố chồng là cụ
Nguyễn Hữu Sam hết. Nhưng, nghĩ lại thì cụ cũng ở tuổi gần đất xa trời,
nếu mình không đứng ra thì lấy ai giữ gìn giữ nghề truyền thống”.
|
Cô Nguyễn Thị Oanh (thứ hai từ trái sang) là nữ nghệ nhân đầu tiên của làng tranh dân gian Đông Hồ
|
Sống chết giữ lấy sắc Việt.....
Cứ thế cây cọ vẽ, tấm khắc cứ đi theo cô Oanh từ đó tới nay. Nói về
nghề làm tranh Đông Hồ hiện tại, cô Oanh cho biết, về cơ bản những
nguyên liệu để làm ra tranh vẫn giữ nguyên như xưa và gia đình cô Oanh
vẫn duy trì việc làm tranh thủ công truyền thống.
Tranh Đông Hồ được làm từ hoa lá cỏ cây, thiên nhiên núi rừng mới
tạo nên. Màu đen lấy từ than xoan hay than lá tre; Màu vàng lấy từ hoa
hòe; Màu đỏ lấy từ sỏi non, gỗ vang; Màu xanh từ lá chàm, gỉ đồng... ).
Tất cả phản ánh cuộc sống và tâm hồn gần gũi với thiên nhiên của con
người Việt Nam.
Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, chất
giấy... Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí còn là bí quyết gia
truyền của mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế
màu mà tranh Đông Hồ của gia đình cô Oanh luôn tươi sáng, rực rỡ và
không bị bay màu và được nhiều người tin tưởng. Song nguyên liệu làm nên
màu trắng từ con điệp giờ cũng khan hiếm nhiều phen khiến gia đình cô
phải xoay xở khắp nơi mới đủ để làm tranh.
|
Tranh dân gian Đông Hồ "Đám cưới chuột"
|
Cứ thế, ngày ngày nghệ nhân Oanh cùng chồng, con trai, con dâu vẫn
tỉ mẩn bên cây bút, bản khắc gỗ để làm nên những bức tranh để đời. Để
theo kịp dòng chảy thời đại, cũng không ngừng nâng cấp hình thức của
tranh. Cô cho rằng tranh của mình quý nhưng cũng phải làm cho mẫu mã đẹp
lên thì mới có nhiều khách hàng. Bằng chứng là tranh dân gian Đông Hồ
của gia đình cô Oanh được lồng trong khung kính, dán lên mặt tre, mặt
trúc tiện cho việc trang trí trong mỗi gia đình.
Bên cạnh những đề tài truyền thống như Gà lợn, Cá chép trông trăng,
Đám cưới chuột, Đánh ghen, Hứng dừa… thì nhiều đề tài hiện đại cũng được
nghệ nhân Oanh không ngừng sáng tạo. Tiêu biểu đó là tranh chùa Bút
Tháp, chùa Dâu được cô Oanh tham gia triển lãm làng nghề tại Festival
Bắc Ninh lần thứ 2 năm 2014. Hai tác phẩm này được hội Văn học Nghệ
thuật Bắc Ninh trao Huy chương Vàng cho sản phẩm làng nghề truyền thống
tiêu biểu. Cô Oanh đã hoàn thiện hai bức tranh này vào đúng dịp Bắc Ninh
đón
Bằng công nhận di tích Quốc gia đặc biệt chùa Dâu và chùa Bút Tháp
với ý nghĩa “Di sản lồng trong di sản” là sự khẳng định miền đất Bắc
Ninh đậm đặc các loại hình di sản văn hóa.
|
Bức tranh chùa Bút Tháp của nghệ nhân Oanh được trao huy chương Vàng sản phẩm làng nghề truyền thống tiêu biểu
|
Nữ nghệ nhân cho hay, trước kia tranh dân gian Đông Hồ bán cho nhiều
du khách nước ngoài nhưng tính tới thời điểm hiện nay, người Việt Nam
cũng ưa chuộng dòng tranh này hơn, nhất là dịp Tết nguyên đán. Song, những người mua tranh chủ yếu là ở trong địa bàn huyện, tỉnh chứ người ở khu vực khác chưa biết đến xưởng tranh của cô.
Với nghề làm tranh, cô Oanh bộc bạch: “Chỉ gọi là đủ ăn để giữ lấy
nếp nghề của cha ông chứ không nghĩ đến làm giàu”. Sản xuất tranh truyền
thống Đông Hồ cũng là một nghề. Muốn nghệ nhân và người làm tranh bảo
tồn bền vững nghề sản phẩm tranh bán ra được phải nuôi sống được họ và
nhất thiết phải có đầu ra tốt. Một gia đình chuyên tâm vào làm tranh thì
không thể đảm đương được cả công đoạn kinh doanh, quảng bá sản phẩm. Vì
thế, rất cần giúp đỡ hỗ trợ của Nhà nước để nghệ nhân yên tâm bảo tồn
vốn văn hóa truyền thống của dân tộc. Sống được bằng nghề chưa đủ mà
phải giàu được bằng nghề thì nghề mới phát triển. Đừng để nghề tranh
lầm vào cảnh “Thương nhớ một làng tranh” lần nữa.
Theo ngaynay.vn